Từ năm ẤT SỬU (1925) đến năm KỶ TỴ (1929)
LỜI TỰA
LỜI TỰA
Với bằng chứng minh bạch, có nhiều vị hỏi tôi muốn xem Thánh giáo của Ðức Chí Tôn đến khai Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ mà không biết tìm ở đâu có?
Tôi trả lời theo câu hỏi nầy: Trọn bộ Thánh giáo Thầy đến khai Ðạo hồi năm 1926, 1927, 1928, 1929 khi Ðức Thượng Phẩm qui Thiên 1929 thì tôi chuyển dâng lên Ðức Hộ Pháp tất cả bổn chánh là 15 tập 100 pages, tôi chỉ còn bổn thảo mà thôi, nhưng mấy năm về trước, thuyền Ðạo không an lái nên bị mối ăn lạc mất rất nhiều, hiện nay tôi chỉ còn lưu giữ lại một phần ít.
Mặc dầu còn ít, tôi nghĩ vì cơ truyền Ðạo do nơi Thánh giáo để Chức Sắc có tài liệu đặng khi hành Ðạo đem phổ thông chơn đạo của Thầy cho đời thấy cơ huyền diệu của Chí Tôn, Phật Mẫu cùng các Ðấng Thiêng Liêng đến mở Ðạo kỳ ba nầy.
Hôm nay tuổi tôi đã quá thất tuần, tôi vẫn còn tinh thần đầy đủ sức khoẻ, trước giờ tôi từ giã cõi trần, nên tôi tìm được tài liệu là Thánh giáo của các Ðấng Thiêng Liêng để lập thành tập Thánh giáo nầy, kính hiến cho quý Chức Sắc để làm kỷ niệm của báu Thiêng Liêng hầu hiểu biết lịch sử của các Ðấng đã dày công đến mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tại cõi Á Ðông nầy.
Trước khi dứt hơi thở cuối cùng của tôi, tôi xin góp chút công quả hiến tập Thánh giáo nầy cho Ðạo để làm kỷ niệm.
Trân trọng kính hiến,
Ngày 15 tháng 10 năm Ðinh Dậu.
Nữ Chánh Phối Sư
(Ấn ký)
HƯƠNG HIẾU
(Ấn ký)
HƯƠNG HIẾU
------------------
Sài Gòn, Le 7 Octobre 1926.
Kính cùng Quan Thống Ðốc Nam Kỳ Sài Gòn,
THÍCH CA MÂU NI PHẬT TÁ DANH
Hộ Pháp
Thượng Phẩm bên hữu Thượng Sanh bên tả
KHAI ÐẠO NƠI CHÁNH PHỦ
Ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (29-9-1926), ông Cựu Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung vâng Thánh ý hiệp với chư Ðạo Hữu hết thảy là 247 người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng tên vào Tịch Ðạo để khai Ðạo với Chánh Phủ.
Tờ Khai Ðạo đến ngày Mùng một tháng chín (07-10-1926) mới gởi lên Chánh Phủ cho quan Nguyên Soái Nam Kỳ là ông Le Fol. Trong tờ nầy có 28 người đứng tên thay mặt cho cả chư Ðạo Hữu có tên trong Tịch Ðạo.
Tờ Khai ấy làm bằng chữ Lang Sa, phiên dịch ra như vầy:
Sài Gòn, Le 7 Octobre 1926.
Kính cùng Quan Thống Ðốc Nam Kỳ Sài Gòn,
Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, kính cho Quan lớn rõ:
Vốn từ trước, tại cõi Ðông Pháp có ba nền Tôn Giáo lớn là: Thích Giáo, Lão Giáo, và Khổng Giáo, Tiên Nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Ðạo ấy, lại nhờ do theo Tôn chỉ quý báu của các Chưởng Giáo truyền lại mới được an cư lạc nghiệp. Trong sử còn ghi câu: "Gia vô bế hộ, lộ bất thập di", chỉ nghĩa là con người thuở ấy an nhàn cho đến đổi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm.
Nhưng buồn thay cho đời thái bình phải mất vì mấy duyên cớ sau nầy:
- Những người hành Ðạo đều phân chia ra nhiều Ðạo, nhiều phái mà kích bác lẫn nhau, chớ Tôn chỉ của Tam Giáo đều như một là làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Ðấng Tạo Hóa.
- Lại canh cải mối chánh truyền của các Ðạo ấy, làm cho thất chơn truyền.
- Những dư luận phản đối nhau về Tôn Giáo, mà ta thấy hằng ngày cũng tại bả vinh hoa và lòng tham lam của nhân loại mà ra, nên chi người An Nam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa.
Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người An Nam, vì căn bổn, vì Tôn Giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam Giáo lại làm một (Quy nguyên phục nhứt) gọi là Ðạo Cao Ðài hay là Ðại Ðạo.
May mắn cho chúng sanh, Thiên tùng Nhơn nguyện, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế hằng giáng Ðàn dạy Ðạo và hiệp Tam Giáo lập Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tại cõi Nam nầy.
Tam Kỳ Phổ Ðộ nghĩa là Ðại Ân Xá lần thứ ba, những lời nói của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ dạy chúng tôi đều cốt để truyền bá Tôn chỉ Tam Giáo.
Ðạo Cao Ðài dạy cho biết:
- Luân lý cao thượng của Ðức Khổng Phu Tử.
- Ðạo đức của Phật Giáo và Tiên Giáo là làm lành lánh dữ, thương yêu nhân loại, cư xử thuận hòa mà lánh cuộc loạn ly giặc giã.
Chúng tôi gởi theo đây cho quan lớn nghiệm xét:
- Một bản sao lục Thánh ngôn của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
- Một bổn phiên dịch Thánh Kinh.
PHỔ ÐỘ LỤC TỈNH
Khai Ðạo xong rồi, việc phổ độ Lục Tỉnh, kể từ tháng 9 năm Bính Dần chia ra như vầy:
- Mấy ông Lê Văn Trung, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Ðạo Quang, lo phổ độ trong mấy tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Ðốc, Hà Tiên, Rạch Giá. Ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc phò loan.
- Mấy ông Lê Văn Lịch, Nguyễn Ngọc Tương, Yết Ma Luật lo phổ độ trong mấy hạt: Chợ Lớn, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre. Ông Nguyễn Trung Hậu và ông Trương Hữu Ðức phò loan.
- Mấy ông Lê Bá Trang, Vương Quan Kỳ, Yết Ma Nhung lo phổ độ trong mấy hạt: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Ðịnh, Biên Hòa, Bà Rịa, Sa Ðéc. Ông Cao Quỳnh Diêu và ông Cao Hoài Sang phò loan.
- Ông Nguyễn Văn Tương và ông Nguyễn Văn Kinh là người rõ thông đạo lý, lại đi khắp nơi giảng Ðạo để độ rỗi người quen.
Kết quả cuộc phổ thông nầy rất nên long trọng, chỉ có một tháng mấy mà kể ra có mấy vạn người nhập môn cầu Ðạo.
Mùng 10 tháng 10 là ngày tạm ngưng việc phổ độ, để lo sắp đặt lễ Khánh Thành Thánh Thất ở Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh).
Sự tích cảnh Chùa Từ Lâm Gò Kén
Cảnh chùa nầy vốn của Hòa Thượng Như Nhãn, ở chùa Giác Hải (Chợ Gạo) quyên tiền trong Bổn Ðạo của ông mà lập ra.
Tháng 7 năm Bính Dần (Aout 1926), ông tình nguyện dâng chùa ấy cho Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ để làm Thánh Thất. Khi ấy chùa cất mới vừa xong, nhưng chưa sơn phết, chưa tráng xi măng và chung quanh chùa vẫn còn bụi cây sầm uất.
Ông Nguyễn Ngọc Thơ phải ra tiền lo việc ấy cho hoàn tất, lại còn dựng cốt Phật Thích Ca và khai thác các việc khác như là: Ðốn cây, trồng kiển, đắp đường cho xe hơi vô tận chùa và cất Tịnh Thất...
Ngày khai Thánh Thất
Ðêm 14 rạng mặt Rằm tháng 10 năm Bính Dần (18 Novembre 1926) là đêm làm Lễ Khánh Thành Thánh Thất Từ Lâm Tự.
Ông Lê Văn Trung thay mặt cho Bổn Ðạo mời đủ các Chức Sắc, Viên quan Lang Sa và An Nam đến dự lễ ấy. Chư Bổn Ðạo và Chư Thiện Nam Tín Nữ hiện diện kể đến hằng muôn. Hội Thánh tiếp đãi khách một cách ân cần trọng hậu. Ngoài cúng phẩm ra thì không thâu tiền bạc gì cả.
Dời Thánh Thất về làng Long Thành Tây Ninh
Vì cuộc biến nọ, vì trường công kích kia mà Hòa Thượng Như Nhãn ngã lòng và Bổn Ðạo của ông đã cúng tiền cất Từ Lâm Tự cũng vì đó mà buộc ông đòi Chùa lại.
Hội Thánh buộc phải giao Chùa lại cho ông Như Nhãn đoạn mới mua một sở rừng 140 mẫu giá 25 ngàn tọa lạc ở làng Long Thành. Khai phá được chừng 10 mẫu rồi mới cất Tòa Thánh tạm mà an bài nơi đó kể từ tháng 2 năm Ðinh Mão.
Lúc bấy giờ, Ðạo phải trải qua nhiều lối chông gai, nhiều đường khổ hạnh, nhưng người chủ trương việc Ðạo, nhứt là ông Cao Quỳnh Cư đem hết dạ nhiệt thành, hết bầu tâm huyết mà sắp đặt trật tự bên trong và chống trả với phản động lực bên ngoài (đời Pháp thuộc).
Ðến đây, tôi xin ngừng bút, tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ cho quý độc giả rõ biết sơ lược về gốc tích Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Ðầu Sư THƯỢNG TRUNG NHỰT
Sài Gòn, Dimanche 24 Octobre 1926.
(Ngày 18-09-Bính Dần)
----------------------(Ngày 18-09-Bính Dần)
Ngày 24-10-1926 (15-09-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy "Thầy là Chư Phật, Chư Phật là Thầy... Các con là Chư Phật, Chư Phật là các con...".
Chùa Phước Linh TựTHÍCH CA MÂU NI PHẬT TÁ DANH
CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Vì Tân Luật chưa ra nên Thầy phải giải, đã có Thánh Tượng Thầy, thì là cốt Ngọc Hoàng còn để lại chẳng nghĩa chi hết. Thầy nói cho các con rõ, vì cớ nào trước từ Nhứt Tổ chí Lục Tổ thì Thầy ngồi trước, vì trước lớn là phải vậy.
Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy. Thầy đã nói, một chơn thần mà biến hóa Càn Khôn Thế Giái và cả nhơn loại. Thầy là Chư Phật, Chư Phật là Thầy.
Các con là Chư Phật, Chư Phật là các con. Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Nên Thầy khai Bát Quái mà tạo thành Càn Khôn Thế Giái, nên mới gọi là Pháp. Pháp mới sanh ra Càn Khôn Vạn Vật, rồi mới tới có người nên gọi là Tăng.
Thầy là Phật của cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy.
Thầy lập Phật Giáo vừa khi khai Thiên lập Ðịa, nên Phật Giáo là trước, kế Tiên Giáo rồi mới tới Nho Giáo, nay Hạ Ngươn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.
Tỷ như lập Tam Giáo qui nhứt thì:
Nho là trước,
Lão là giữa,
Thích là chót.
Lão là giữa,
Thích là chót.
Nên Thầy phải ngồi sau Chư Phật, Tiên, Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại vô vi chi khí chính là Niết Bàn đó vậy.
Còn như Hộ Pháp đã xuống trần rồi còn thờ chi nữa, nên các con nên lập ra ba bài vị đề:
Hộ Pháp
Thượng Phẩm bên hữu Thượng Sanh bên tả
Còn cổ lễ thì cúng: Rượu là Khí, Bông là Tinh, Trà là Thần.
----------------------------THIÊN PHONG
Chưởng Pháp
*Tương (Minh Sư): Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thượng",
Ngày 24-07-Bính Dần.
*Như Nhãn (Huề Thượng Giác Hải): Quan Pháp Truyền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Linh Diệu Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thái"
*Thụ (Minh Sư ở chùa Vĩnh Nguyên Tự): Nho Tông Chưởng Giáo Tuyến Ðạo Thuyền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Ngọc", Ngày 10-9-Bính Dần.
*Lê Văn Lịch: Ngọc Lịch Nguyệt, Rằm tháng 3 Bính Dần.*Thiện Minh: Thái Minh Tinh, Ngày 13-10-Bính Dần.
*Thụ (Minh Sư ở chùa Vĩnh Nguyên Tự): Nho Tông Chưởng Giáo Tuyến Ðạo Thuyền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Ngọc", Ngày 10-9-Bính Dần.
Ðầu Sư
*Lê Văn Trung: Thượng Trung Nhựt, Rằm tháng 3 Bính Dần.*Lê Văn Lịch: Ngọc Lịch Nguyệt, Rằm tháng 3 Bính Dần.*Thiện Minh: Thái Minh Tinh, Ngày 13-10-Bính Dần.
Phối Sư (Phái Ngọc)
*Lê Bá Trang: Ngọc Trang Thanh, Mùng 3 tháng 7 Bính Dần.
Phối Sư (Phái Thượng)
*Tương (Phủ): Thượng Tương Thanh, Ngày 17-05-Bính Dần.
*Hóa: Thượng Hóa Thanh, Ngày 19-08-Bính Dần.
Phối Sư (Phái Thái)
*Nguyễn Ngọc Thơ: Thái Thơ Thanh, Ngày 02-07-Bính Dần.
Giáo Sư (Phái Ngọc)
*Kinh: Ngọc Kinh Thanh, Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
*Vân: Ngọc Vân Thanh, Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
*Ðạt: Ngọc Ðạt Thanh, Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
*Mùi: Ngọc Mùi Thanh, Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
*Thông: Ngọc Thông Thanh, Ngày 28-09-Bính Dần.
Giáo Sư (Phái Thượng)
*Kỳ: Thượng Kỳ ThanhTiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Ðạo Giáo Sư ( Rằm tháng 3 Bính Dần). Ngày 14 tháng 5 Bính Dần.*Kim: Thượng Kim Thanh, Ngày 17 tháng 5 Bính Dần.
*Chức:Thượng Chức Thanh, Ngày 19 tháng 8 Bính Dần.
*Hành:Thượng Hành Thanh, Ngày 29 tháng 8 Bính Dần.
*Vinh: Thượng Vinh Thanh, Ngày 09 -09 Bính Dần.
*Ðịnh:Thượng Ðịnh Thanh, Ngày 28 tháng 9 Bính Dần.
*Hoài: Thượng Hoài Thanh , Rằm tháng 10 Bính Dần.
*Hoài: Thượng Hoài Thanh , Rằm tháng 10 Bính Dần.
*Hoài: Thượng Hoài Thanh , Rằm tháng 10 Bính Dần.
*Lai: Thượng Lai Thanh, Rằm tháng 10 Bính Dần.
*Son:Thượng Châu Thanh, Rằm tháng 10 Bính Dần.
*Búp: Thượng Búp Thanh, Rằm tháng 10 Bính Dần.
*Viễn:Thượng Viễn Thanh, Rằm tháng 10 Bính Dần.
*Tín:Thượng Tín Thanh, Rằm tháng 10 Bính Dần.
*Nhơn:Thượng Nhơn Thanh, Rằm tháng 10 Bính Dần.
Rút một đoạn Thánh giáo ngày Rằm tháng 10 Bính Dần (Vendredi Novembre 1926):
- Các con cứ lấy tên mình mà lót giữa và để chữ Thượng trước, duy có Son tên chữ Nôm, Thầy sửa lại là Châu ...
Giáo Sư (Phái Thái)
*Nhung: Thái Nhung Thanh, Rằm tháng 7 Bính Dần.
*Luật: Thái Luật Thanh, 22 tháng 7 Bính Dần.
*Bính: Thái Bính Thanh, 07 tháng 8 Bính Dần.
Giáo Hữu (Phái Thượng)
*Giỏi: Thượng Giỏi Thanh, 23-8-Bính Dần.
*Bản: Thượng Bản Thanh
(Tiên Ðạo Công Thần Thuyết Ðạo Sư, Rằm tháng 3 Bính Dần). 25-8-Bính Dần
(Tiên Ðạo Công Thần Thuyết Ðạo Sư, Rằm tháng 3 Bính Dần). 25-8-Bính Dần
*Giảng: Thượng Giảng Thanh, 25 tháng chạp Bính Dần.
*Phạm Văn Thấp: Thượng Thấp Thanh, 17-09-Bính Dần.
*Huỳnh Văn Sơn: Thượng Sơn Thanh, 17-09-Bính Dần.
*Lê Văn Cúc: Thượng Cúc Thanh, 17-09-Bính Dần.
*Nguyễn Văn Phương: Thượng Phương Thanh, 17-09-Bính Dần.
*Võ Văn Kinh: Thượng Kinh Thanh, 17-09-Bính Dần.
*Bùi Văn Thiên: Thượng Thiên Thanh, 17-09-Bính Dần.
*Nguyễn Văn Cúc: Thượng Cúc Thanh, 17-09-Bính Dần.
*Nhơn: Thượng Nhơn Thanh, 27-09-Bính Dần.
*Nghi: Thượng Nghi Thanh, 27-09-Bính Dần (Rạch Giá).
*Lân: Thượng Lân Thanh,02 tháng 09 Bính Dần (Vũng Liêm).
*Bích:Thượng Bích Thanh, Rằm tháng 10 Bính Dần (Cần Thơ).
*Huỳnh Văn Tuất: Thượng Tuất Thanh, Rằm tháng 10 Bính Dần (SàiGòn).
*Trịnh Văn Kỳ: Thượng Kỳ Thanh, 21-10-Bính Dần (Tây Ninh).
*Sâm: Thượng Sâm Thanh, 26-10-Bính Dần (Chợ Lớn).
*Tu: Thượng Tu Thanh, 26-10-Bính Dần (SàiGòn).
*Ty: Thượng Ty Thanh, 26-10-Bính Dần (Cần Giuộc).
*Tiếp: Thượng Tiếp Thanh, 26-10-Bính Dần (Cần Giuộc).
*Tường: Thượng Tường Thanh, 26-10-Bính Dần (SàiGòn).
*Bùi Văn Dứa: Thượng Dứa Thanh, 28-10-Bính Dần (Tây Ninh).
*Kiệt: Thượng Kiệt Thanh, 30-10-Bính Dần.
Lễ Sanh
*Bản, 14-05-Bính Dần.
*Bản, 14-05-Bính Dần.
*Giảng, 14-05-Bính Dần.
*Tường, 14-05-Bính Dần.
*Giỏi, 14-05-Bính Dần.
*Nhơn, 17-05-Bính Dần.
*Kinh, 17-05-Bính Dần.
*Tỵ, 17-05-Bính Dần.
*Tiếp, 17-05-Bính Dần.
*Tuất, 23-08-Bính Dần.
*Nguyễn Văn Trò, 25-08-Bính Dần.
*Hương, 25-08-Bính Dần.
*Của, 26-10-Bính Dần.
*Học, 26-10-Bính Dần.
*Huỳnh Văn Ðáng, 26-10-Bính Dần.
*Qui, 26-10-Bính Dần.
*Ðờn, 26-10-Bính Dần.
*Thuận, 26-10-Bính Dần.
*Phi, 26-10-Bính Dần.
*Bảo, 26-10-Bính Dần.
*Trần Văn Xương, 26-10-Bính Dần.
*Trần Văn Uông, 26-10-Bính Dần.
*Tạ (Trần Văn Tạ), 26-10-Bính Dần.
*Hoằng
*Mỹ Ngọc
*Mắc Mục Thanh: Phụ Ðạo Chưởng Nghiêm Pháp Quân, 26-10-Bính Dần.
Phò Loan
*Ðức, Hậu: Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ
*Nghĩa, Tràng: Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ
*Tươi, Chương: Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ
*Kim, Ðãi: Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ
*Mai, Nguyên: Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ
*Mạnh, Phước: Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ
*Cao Hoài Sang: Thượng Sanh.
*Phạm Công Tắc: Hộ Pháp (Hộ Giá Tiên Ðồng Tá Cơ Ðạo Sĩ, ngày 15-03-Bính Dần)
*Cao Quỳnh Cư: Thượng Phẩm (Tá Cơ Tiên Hạc Ðạo Sĩ, ngày 15-03-Bính Dần)
Nữ Phái
*Lâm Thị Thanh: Nữ Giáo Sư, lấy Thiên Ân là Hương Thanh.
*Ca Thị Thế: Phó Giáo Sư, lấy Thiên Ân là Hương Thế.
*Ðường Thị: Ðã thọ Thiên sắc, cứ giữ địa vị mình.
*Ðạo Minh: "Cô Sáu": Nữ Giáo Sư, Mùng 4-11-Bính Dần (Chùa Hạnh Thông Tây).
Trong tập nầy chưa biên tên những vị đi tình nguyện phổ cáo Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
---------------------
BÀI TRỜI CÒN (Bài đọc cầu cơ)
Trời còn sông biển đều còn,
Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần.
Thanh Minh trong tiết vườn xuân,
Phụng chầu, hạc múa, gà rừng gáy reo.
Ðường đi trên núi dưới đèo,
Lặng tìm cao thấp phải trèo chông gai.
Phận làm con thảo há nài,
Biết thương Tiên, Phật, Bồng Lai mà tìm.
Xem qua xét lại cổ kim,
Một bầu Trời Ðất thanh liêm chín mười.
Vàng trau ngọc chuốt càng tươi,
Bền lòng theo Phật cho người xét suy.
Thần Tiên vốn chẳng xa chi,
Có lòng chiêm ngưỡng nhứt thì giáng linh.
Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần.
Thanh Minh trong tiết vườn xuân,
Phụng chầu, hạc múa, gà rừng gáy reo.
Ðường đi trên núi dưới đèo,
Lặng tìm cao thấp phải trèo chông gai.
Phận làm con thảo há nài,
Biết thương Tiên, Phật, Bồng Lai mà tìm.
Xem qua xét lại cổ kim,
Một bầu Trời Ðất thanh liêm chín mười.
Vàng trau ngọc chuốt càng tươi,
Bền lòng theo Phật cho người xét suy.
Thần Tiên vốn chẳng xa chi,
Có lòng chiêm ngưỡng nhứt thì giáng linh.
BÀI MỪNG THAY
Mầng thay chi xiết nỗi mầng,
Hào quang chiếu diệu ngàn tầng khôn trung.
Hạc reo bay khắp dạo cùng,
Càn Khôn Thế Giái cũng chung một bầu.
Môn sanh thành kỉnh chực chầu,
Tửu trà huê quả mừng cầu Tiên Ông.
Nhang thơm tốc đốt nực nồng,
Ðèn lòa ngọn lửa tựa rồng phun châu.
Hào quang chiếu diệu ngàn tầng khôn trung.
Hạc reo bay khắp dạo cùng,
Càn Khôn Thế Giái cũng chung một bầu.
Môn sanh thành kỉnh chực chầu,
Tửu trà huê quả mừng cầu Tiên Ông.
Nhang thơm tốc đốt nực nồng,
Ðèn lòa ngọn lửa tựa rồng phun châu.
Lạy mầng.
---
Phụ ghi: Câu thứ hai của bài Mừng Thay ...ngàn tầng khôn trung. có thể là ...ngàn tầng không trung.
------------------
Ngày 16-11-1926 (âl. 12-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy Lập Lễ Thánh Thất.
Mardi 16 Novembre 1926 (12-10-Bính Dần) NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Lập Lễ Thánh Thất
Phải làm một Nghi Án trước Ðiện day mặt vô bảy Ngai, hình vuông đóng bốn mặt, trên như nóc chùa, kết hàng cho đẹp. Nơi ấy phải kín, bốn phía ra vô có màn, Thầy giáng cơ tại Án ấy nghe à!
Lễ Thánh Thất, chia ra làm lễ khách xuất thâu. Vậy thì Thầy nói về lễ trước.
Việc lễ: Thầy giao chánh sự cho Trang, phó sự cho Nhung; phụ sự có Ý nghe à!... Như Ý không chịu thì Lịch phải thế. Vậy thì chánh sự là Trang làm đầu, Thầy lại thêm ba vị nữa cho các con rộng dùng là: Mùi, Vân, Ðạt.
Thầy lại hỏi thêm 12 đứa nữa, ai tình nguyện.
Lê Văn Sanh, Dương Văn Hoài
Nguyễn Xuân Quang, Sơn
Lê Thế Vĩnh, Hườn
Trần Văn Bân, Nguyễn Văn Mùi.
Nguyễn Xuân Quang, Sơn
Lê Thế Vĩnh, Hườn
Trần Văn Bân, Nguyễn Văn Mùi.
Về việc khách: Khách thì Tương là chánh sự, Luật là phó sự. Thầy muốn đem Hoài vô đặng không Lịch? Voi là phụ sự, Lại, Son, Thành là giúp. Thầy hỏi 12 đứa tình nguyện:
Giỏi, Bản, Tuất, Tiếp
Trò, Giảng, Học, Kỳ
Tường, Hơn, Kính, Ðơn
Trò, Giảng, Học, Kỳ
Tường, Hơn, Kính, Ðơn
Về thâu: Thì Thơ, Như Nhãn, Huệ Quang.
Thầy hỏi hai đứa Châu, Lục... Châu Tuấn.
Về việc xuất: Xuất thì Lịch, Xài, Hóa (Phủ Hóa, Cần Ðước). Thầy hỏi hai đứa Ký Lục... Kiều, Vĩnh.
Nghe hành lễ con Trang.
Chưởng Pháp, Ðầu Sư: Thầy định ba ngôi Chưởng Pháp, ba ngôi Ðầu Sư đều có vị.
Phối Sư: Còn Phối Sư thì Trang, Tương, Thơ là chánh, còn ba mươi ba vị nữa thì tùy theo ngày phong sau trước đứng nối theo đó.
Giáo Sư: Rồi tới 72 Giáo Sư, cũng tùy theo ngày thọ sắc mà phân sau trước.
Giáo Hữu: Kế nữa là 3.000 Giáo Hữu cũng tùy theo Thiên Phong mà đứng theo hàng ngũ phái Thượng, phái Thái, phái Ngọc vậy.
Phò Loan: ... Tiếp nối theo sau ngay chính giữa nơi bàn Hộ Pháp thì: Ðức, Hậu, Tràng, Nghĩa. Bên mặt thì: Mạnh, Phước, Mai, Nguyên. Bên trái thì: Ðãi, Kim, Tươi, Chương.
Hộ Pháp: Còn lại để dựa bên bàn Hộ Pháp hai cái ghế rồi làm hai cây phướn đề: Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
Thượng Phẩm: Bên mặt Hộ Pháp là Thượng Phẩm.
Thượng Sanh: Bên trái Hộ Pháp thì là Thượng Sanh.
Ðưa cây Thượng Phẩm cho Mùi, cây Thượng Sanh cho Vĩnh cầm hầu hai bên.
Trấn cờ Ngũ phương: tại Ðông phương, Tây phương, Nam phương, Bắc phương lựa 12 đứa Ðồng nhi cầm cờ, còn giữa thì giao cho Hậu, Nghĩa, Ðức.
Lịch hiểu à? Khi hành Ðại Lễ cho Thầy rồi thì Lễ Sanh xướng: "Thiên Phong hoán tẩy", cả thảy đều ra rửa mặt mày cho tinh sạch. Chừng xướng "Chỉnh túc y quan" thì cả thảy phải thay Thiên phục.
Lễ Sanh xướng "Lập vị" đứng theo hàng ngũ cũ như trước. Hành lễ y như tại chùa Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch. Còn Nữ phái thì đều phải mặc đồ trắng trước hành lễ.
Thiên Phong Nữ Phái: Thì Cư, Tắc phải vào Nghi Án phò lập Tịch Ðạo phò loan cho Thầy phong Nữ phái trước và lập Tịch Ðạo luôn nữa nghe.
Trấn Thần: Chừng mặc Thiên phục rồi thì Cư, con chấp bút nhang cho Thầy trấn Thần mỗi người và nơi mình của chư Thiên Phong rồi mới hành lễ.
Nhớ biểu Nam phái đứng chẳng hết ở giữa thì qua bên tả của Thầy, song phải phân hàng ngũ đẳng cấp chúng nó cho tử tế chớ không đặng lộn xộn.
Hành lễ: Còn bao nhiêu Môn Ðệ đứng tiếp theo sau. Thầy dặn, hành lễ rồi thì biểu Lễ Sanh xướng "Thiên Phong Phò Loan" đặng Thầy lập "Phật truyền Chánh pháp". Cư, Tắc phải để Thiên phục vậy phò cơ nghe. Thầy sẽ giao nhạc cho Mỹ Ngọc và lễ, Nhơn.
---
Le 30-10-1926 (24-09-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Khai Ðạo tại Chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự ) Tây Ninh.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Tái Cầu:
--------------------
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Tiếp theo, ngày 17-10-Bính Dần
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
V. Phên:
Mardi 23 Novembre 1926 (19-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Lý Thị Chi:
Mardi séance du 23 Novembre 1926 (18-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
---ooo---
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Dương Văn Ngọ:
Ngô:
Miêng:
Tái Cầu:
---
Phụ ghi: (*1) Nguyên bản chánh in là Ngày 16 Novembre 1926 (23-06-Bính Dần), đối chiếu với LỊCH THẾ KỶ XX (1901 -2000) Ấn bản năm 1976, nhà xuất bản PHỔ THÔNG - HÀ NỘI ghi Ngày16 Novembre 1926 ngày âm lịch là 12-10-Bính Dần.
-----------------------
Ngày 17-11-1926 (âl. 13-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy Lập Lễ Thánh Thất.
Mercredi 17 Novembre 1926 (13-10-Bính Dần)Khi Môn đệ mặc đồ thường vào con cũng phải sắp đặt địa vị chúng nó.
Tụng kinh hành lễ thường vừa rồi, con biểu Cư, Tắc rửa mặt, rửa tay cho tinh khiết, biểu chúng nó vào nơi Nghi Án cho Thầy phong sắc chư Môn Ðệ Lục Tỉnh xong kế lập Nữ phái. Con phải giúp em con là Ðường Thị, Lâm Thị, với Ca Thị lập vị bên Nữ phái cho trang hoàng.
Chừng Thầy thăng, biểu hai đứa nhỏ ra đứng nơi bàn Hộ Pháp nơi cũ, chừng Lễ Sanh xướng "Chỉnh Túc Y Quan" thì biểu 12 đứa phò loan sắp ba hàng kế đó, biểu Ðạt đi.
Kế đó là Tắc, Cư, Sang đi hai bên, nữa thì ba vị Chưởng Pháp (biểu Nhàn theo hộ Thụ). Kế nữa thì ba vị Ðầu Sư (biểu Tạ theo Trung, còn Hoằng theo Thiện Minh). Kế nữa ba vị Chánh Phối Sư, kế nữa Chức Sắc đi ba đứa, ba đứa ra thay đồ Thiên phục. Khi đặng nửa giờ phải đổ chuông ba hiệp. Chờ tới hiệp chót biểu Lễ Sanh xướng "Lập vị" thì lại đi như nãy mà trở vào. Nhớ biểu hai đứa cầm phướn Thượng Phẩm, Thượng Sanh đi gần bên Cư, Sang.
Vào lập vị hành Ðại Lễ như buổi Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch à ... là đã hết một đêm đầu rồi.
Kế đêm sau, thì là đêm Thiên Phong cho cả chư Môn đệ và là đêm các con phải thành tâm trai giới cho Thầy lập Pháp Chánh Truyền.
Ðêm thứ ba, các con cũng lập vị cúng thường ngày, xong hai đứa nhỏ mặc Thiên phục vào Nghi Án cho Thầy giáng rồi việc lễ.
Khách: .... Còn việc khách thì, Tương con phải chia 12 đứa phụ sự ra làm ba ban. Một ban 4 đứa đãi bọn Thượng lưu và Lang Sa; một ban đãi bọn Trung lưu; một ban đãi bọn Hạ lưu; song phải cắt ba vị Phó phụ sự ra ba ban đặng cai quản. Còn con thì lo việc tiếp các quan Lang Sa.
Việc phòng trù con cũng nên sắp đặt, nhứt là đừng khi khiếm lễ cùng ai hết.
Về việc xuất: Tới việc xuất thì ba vị chấp sự mỗi đều ký giấy tử tế cho đủ ba người mới cho xuất tiền ... cười. Thầy làm như vậy đặng dự phòng lãng phí nghe à.
Về việc thâu: Còn sự thâu, Trang con khéo tính lắm. Thầy khen và cám ơn con; song phải lo thu xếp cho em Thơ con nó bớt tốn kém tội nghiệp nghe con.
---Phụ ghi: (*1) Nguyên bản chánh in là Ngày 17 Novembre 1926 (24-10-Bính Dần), đối chiếu với LỊCH THẾ KỶ XX (1901 -2000) Ấn bản năm 1976, nhà xuất bản PHỔ THÔNG - HÀ NỘI ghi Ngày 17 Novembre 1926 ngày âm lịch là 13-10-Bính Dần.
---------------------Ngày 30-10-1926 (âl. 24-09-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy "Thầy đã lập Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con...".
Le 30 Octobre 1926 (24-09-Bính Dần)THẦY
Các con! Thầy đã lập Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con, biết à!
Thầy lại qui Tam Giáo, lập Tân Luật trong Rằm tháng 10 có Ðại Hội cả Tam Giáo nơi Thánh Thất, các con hay à!
Sự tế tự chế sửa theo Tam Kỳ Phổ Ðộ cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à!
Thầy nhập ba Chi lại một nhà, Thầy là Cha Chưởng Quản, hiểu à!
Thầy phải buộc các con hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à!
Từ đây các con sẽ cực nhọc hơn, vì Thầy phân phát phận sự cho mỗi đứa, vì chẳng vậy các con sanh nạnh nhau, giống tựa hồ chia phe phân phái, là điều đại tội trước mặt Thầy vậy, nghe à!
Các con phải ngưng việc mà chung lo trong Ðại Hội (là Rằm tháng 10 Bính Dần, Khai Ðạo tại Chùa Gò Kén, Tây Ninh).
Le 30-10-1926 (24-09-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn đệ, hỉ chư Nhu, hỉ chư Ái Nữ.
Thầy biểu Hiếu vào nghe, Thầy mượn một chút. Con lên kêu Nhiều đến với con đặng nghe Thầy dạy việc nhà. Chư Tín nữ cầu Ðạo đắc vấn.
Hiếu, Nhiều, hai con phải sắm sửa dọn nhà về Tây Ninh, từ đây Cư, Tắc phải lo Ðạo, các con phải đành chịu khổ cực cùng Thầy như hai đứa nó vậy mới đáng con cái Thầy. Thầy lấy làm chua xót mà Ðạo là trọng mới biết liệu sao?
Hiếu bạch: Thưa Thầy con vâng. (1)
Nhiều, sao con? (Nhiều bạch Thầy còn mẹ già).
Nó đi theo với con, mặc kệ nó để đó cho Thầy. Con cứ tuân mạng lịnh Thầy mà thôi. Thầy ban ơn cho con.
Hiếu, con phải chăm nom gìn giữ em con.
---(1) Xem Tiểu Sử Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu.
Dẫn giải: Trước khi mở Ðạo, Thầy giáng dạy hồi còn dưới Sài Gòn.
Dẫn giải: Trước khi mở Ðạo, Thầy giáng dạy hồi còn dưới Sài Gòn.
--------------------
Ngày 18-11-1926 (âl.14-10-Bính Dần): Thánh giáo ngày Khai Ðạo của Ðức Chí Tôn khai Tịch Ðạo Nữ phái.
Jeudi le 18 Novembre 1926 (14-10-Bính Dần)Khai Ðạo tại Chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự ) Tây Ninh.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ,
Nữ phái nghe Thầy khai Tịch Ðạo:
"Hương tâm nhứt phiến cận Càn Khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn".
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn".
Lâm thị: phong vi Giáo Sư, lấy Thiên Ân là Hương Thanh.
Ca thị: phong vi Phó Giáo Sư, lấy Thiên Ân là Hương Ca.
Ðường thị: đã thọ mạng Thiên sai cứ giữ địa vị mình, còn cả chư Ái Nữ Thầy sẽ lập Ðại hội cho đủ mấy vị, rồi phong sắc một lần; Thầy còn đợi Minh Lý hiệp nữa, nghe à!
Thầy ban ơn cho các con.
Cứ hành lễ theo lời dặn.
---------------------
Ngày 19-10-1926 (âl.15-10-Bính Dần): Thánh giáo ngày Khai Ðạo Ðức Chí Tôn quở trách "... Thầy lấy làm tức cười mà lại đau thảm cho những kẻ vô phúc bị ngã vì bận thử thất nên vậy...".
Vendredi, le 19 Novembre 1926 (15-10-Bính Dần)THẦY
Cả chư Môn Ðệ ngu, ngu, ngu.
Thầy lập phép để làm chi. Thầy dạy sắp đặt lễ.... làm không trúng.
Cả chư Môn Ðệ nam nữ hầu Thầy đặng phân hàng ngũ cho nghiêm trang.
Thái Ðầu Sư ? Tương đâu?
Tiếp theo: Các con nghe,
Tuy vân Thầy dùng phép thử Thánh mặc dầu, chẳng lẽ một vị Thiên Tước mà rẻ rúng đặng vậy, nhưng các con lại chẳng hiểu rõ tà quái quyền hành là bực nào mà giữ mình hằng buổi.
Thầy lấy làm tức cười mà lại đau thảm cho những kẻ vô phúc bị ngã vì bận thử thất nên vậy.
Tái Cầu: Khi Trang, Tương, Minh đến nghe à! Nếu các con còn vậy nữa Thầy sẽ phạt một cách nặng nề. Kỳ đem một chén nước lạnh vào đây.
---000---
Tái Cầu:THẦY
Các con, cười ....
Thầy chẳng biết đến chừng nào, Thầy dạy cho các con hiểu Thánh ý Thầy đặng... Cười...
Thầy dặn... Lịch nghe dạy.
Phải trấn đàn từ phía góc Thánh Thất chớ chẳng phải nội ở giữa mà thôi, rồi làm Ðại Lễ như buổi ở tại chùa Vĩnh Nguyên.
Nhớ đừng phát cờ lộn nữa nghe à.
Bởi tại con nên ra đến đổi, hiểu à.
Thầy dặn con một điều nầy nữa, từ đây khá làm theo lời Thầy dạy, đừng biến cải nghe à.
Thiên Phong lập vị.
Chưởng Pháp tọa vị, Ðầu Sư tọa vị... khá hành lễ.
Chư Môn Ðệ nhập nội cho có nghiêm trang. Mỹ Ngọc, con phải biểu nhạc đờn đủ bảy bài.
Thầy buộc tái cầu đặng Thiên Phong nghe.
Thầy ngự.
---000---
Vendredi, le 19-11-1926 (Rằm tháng 10 Bính Dần)Tái Cầu:
THẦY
Các con.
Trung! ra mời chư Thiên Phong Lục tỉnh còn sót lại vào hầu.
Viễn, đợi chút con.
Thầy biểu... lui.
Tín vào Tây Ninh thăm Sâm gần chết.
Viễn, Hoài! Thầy khen hai con, hai con quì đó. Thầy kêu vài đứa nữa.
Hoài (Cần Giuộc), Lai, Son, Bút, Viễn, Tín, Thầy phong chức Giáo Sư; còn Bích chức Giáo Hữu. Nhơn đã là Giáo Hữu, Thầy thăng lên chức Giáo Sư.
Các con cứ lấy tên mình mà lót giữa và để chữ Thượng trước, duy có Son tên chữ Nôm, Thầy sửa lại là Châu. Các con nghe,
Ðau dạ ôm thương dụng pháp hình,
Ðừng vì Cha mến tởn oai linh.
Một phen thử thách đều trôi hết,
Thầy buộc lập công khá hết tình.
Ðừng vì Cha mến tởn oai linh.
Một phen thử thách đều trôi hết,
Thầy buộc lập công khá hết tình.
Thầy dạy các con nhớ ngày nầy là ngày kỷ niệm. Trung, con phải lấy tên của Chư Môn Ðệ có mặt tại đây ngày nay mà giữ gìn để lưu lại cho hậu thế biết.... nghe à!
Thầy cần dùng ba chục đứa tình nguyện để phổ cáo xứ xa, ai đâu?
Lấy tên con Tương.
Trung Kỳ, Bắc Kỳ.
Bính, Thầy dạy riêng con.
Ngày mùng 1 chư Thiện Nam Tín Nữ mới đặng cầu Ðạo.
Chư Thiên Phong bình thân.
Viễn xin tập đồng, Thầy cho; sau Thầy sẽ làm phép truyền Thần cho nó. Quế, con phụ bút với Bích nghe... cười...
Cả thảy Thầy phong chức Giáo Hữu, đến sau Thầy buộc học hết Thánh ngôn rồi mới đi phổ cáo nghe à!
Hoài, phải con. Thầy không quên, song đợi con ra chịu gánh vác. Thầy phong cho con chức Giáo Sư, gắng phổ độ tỉnh Bến Tre nghe.
Ðêm nay các con phải thành tâm cầu nguyện đặng ngày mai Thầy lập Pháp Chánh Truyền nghe à.
Thầy không phong sắc cho ai hết đặng phạt tội ngã lòng.
Ngày 20-11-1926 (âl. 16-10-Bính Dần): Thánh giáo ngày Khai Ðạo Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền.
Samedi 20 Novembre 1926 (16-10-Bính Dần)NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Môn Ðệ.
Chư Minh Lý có mặt há?
Thầy mừng các con, Chư Môn Ðệ nghe.
Thầy lập phẩm Giáo Tông nghĩa là: Anh Cả các con có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.
Thầy mừng các con, Chư Môn Ðệ nghe.
Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.
Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa Giới đặng cầu rỗi cho các con, nghe à.
Chư Môn Ðệ tuân mạng.
Chưởng Pháp của ba phái là: Ðạo, Nho, Thích; Pháp luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mắt Thầy vốn coi như một vậy, thì một thành ba, mà ba cũng như một.
Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành; hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống hay là nơi Ðầu Sư dâng lên. Như hai đàng chưa thuận thì chúng nó phải dưng lại cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy giáng xuống sửa lại, hay là tùy ý lập luật lại. Vậy chúng nó có quyền xem xét kinh điển trước lúc phổ thông, như thoảng có kinh luật chi làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ chẳng cho xuất bản.
Buộc các Tín Ðồ vùa sức mà hành sự trước mặt luật đời, Thầy khuyên các con rán xúm nhau mà giúp chúng nó. Mỗi Chưởng Pháp có ấn riêng, ba ấn phải có đủ trên mỗi luật mới đặng thi hành.
Chư Môn Ðệ tuân mạng.
Ðầu Sư có quyền cai trị phần Ðạo và phần Ðời của Chư Môn Ðệ. Nó đặng quyền lập luật, song phải dâng cho Giáo Tông phê chuẩn. Luật lệ ấy phải xem xét một cách nghiêm nhặt coi phải có ích cho nhơn sanh chăng? Nên Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.
Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông khuyến dạy; như thoảng luật lệ nào nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh thì chúng nó đặng phép nài xin hủy bỏ.
Thầy khuyên các con phải thương yêu nhau và giúp đỡ nó, Thầy lại dặn các con: Như có chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó.
Ba chi tuy khác chớ quyền luật như nhau, như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông. Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa, chúng nó có ba cái ấn riêng nhau, mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành nghe à.
Chư Môn Ðệ tuân mạng.
Phối Sư mỗi phái là mười hai người cọng là ba mươi sáu, trong 36 vị ấy có ba vị Chánh Phối Sư. Ba vị ấy đặng thế quyền cho Ðầu Sư mà hành sự, song không quyền cầu phá luật lệ nghe à.
Chư Môn Ðệ tuân mạng.
Giáo Sư có 72 người, trong mỗi phái là 24 người. Giáo Sư là người để dạy dỗ chư Môn Ðệ trong đường Ðạo với đường Ðời. Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em, chúng nó cầm sổ bộ của cả Tín Ðồ. Chúng nó phải chăm nom về sự tang, hôn của mỗi đứa.
Như tại Châu Thành lớn, thì mỗi đứa đặng quyền cai quản cúng tế Thầy như thể Ðầu Sư và Phối Sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về luật lệ làm hại nhơn sanh, hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy. Chúng nó phải thân cận với mỗi Môn Ðệ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ nghe à.
Chư Môn Ðệ tuân mạng.
Giáo Hữu là người để phổ thông chơn Ðạo của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ Ðạo. Ba ngàn Giáo Hữu chia ra đều mỗi phái một ngàn, chẳng đặng tăng thêm hay là giảm bớt. Chúng nó đặng phép khi hành lễ làm chủ các chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. Ðiều chi chúng nó xin thì buộc Giáo Tông phải cần mẫn xét nét hơn hết, như điều gì mờ hồ thì chúng nó là kẻ sai đi kiểm duyệt.
Chúng nó phải đủ hạnh đức, tư cách mới đặng, vì chúng nó là người thân cận với nhơn sanh hơn hết... nghe à.
Lễ Sanh là người có hạnh lựa chọn trong chư Môn Ðệ để hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi khai đàn cho mỗi Tín Ðồ. Thầy dặn các con hiểu rõ rằng: Lễ Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó. Như vào đặng hàng Lễ Sanh mới mong bước qua hàng Chức Sắc. Kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới đi khỏi ngã ấy mà thôi, nghe à.
Chư Môn Ðệ tuân mạng.
... Con khá an lòng chờ đợi, Thầy sắp đặt Nữ phái, công con Thầy chẳng quên, con chớ rầu buồn. Thầy còn lắm điều sắp đặt, con đừng vội mà ngã lòng nghe à.
---Phụ ghi: ...thoảng... theo ấn bản Pháp Chánh Truyền Chú Giải ghi là: ... thảng ...
---ooo---Tiếp theo, ngày 17-10-Bính Dần
THẦY
- Ðầu Sư muốn lên Chưởng Pháp thì nhờ 3 vị công cử.
- Phối Sư muốn lên Ðầu Sư thì nhờ 36 vị kia công cử.
- Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì nhờ 72 vị xúm nhau công cử.
- Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư, thì nhờ 3000 vị xúm nhau công cử.
- Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu, thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử.
- Môn Ðệ muốn lên Lễ Sanh thì nhờ cả Môn Ðệ xúm nhau công cử, kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Còn Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Ðầu Sư tranh đặng, song phải chịu cho toàn Môn Ðệ công cử mới đặng; kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Chư Môn Ðệ tuân mạng. Thầy ban ơn cho các con.
Thăng.
----------------------Ngày 23-11-1926 (âl. 19-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
2 giờ sáng, Mardi 23 Novembre 1926 (18 rạng 19 Bính Dần)NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Thiện Nam, Chư Tín Nữ,
Cười .....
Ta sẽ cho những kẻ thờ ta với miệng lưỡi, chớ chẳng phải thờ ta với lòng dạ, biết oai quyền ta thể nào. Ta nói thiệt tốt hơn kẻ ấy đừng sanh ra ở thế nầy hơn là có sống mà đã chết. Quản chi một lũ ma hồn quỉ xác mà phải nhọc nhằn cho ta dường này.
Chúng nó dám mượn màu dối thế mà bêu dạng trước mắt Ta. Khổ cho những kẻ ấy! Khốn cho những kẻ ấy! Chư Thiện Nam cầu Ðạo thượng sớ.
Lê Chí Thuần:Ðã thừa may rủi cuộc vinh hư,
Làm lắm công phu thử đến chừ.
Hiệp khách nên trang non nước sửa,
Càng qua lần lựa cửa anh thư.
Làm lắm công phu thử đến chừ.
Hiệp khách nên trang non nước sửa,
Càng qua lần lựa cửa anh thư.
Thâu
Bùi Chánh Trực:Thơ trang đưa rước khách tài ba,
Nên nghiệp bởi con biết chữ hòa.
Âm chất chưa hao nhà chứa trước,
Phương châm gìn rõ chánh cùng tà.
Nên nghiệp bởi con biết chữ hòa.
Âm chất chưa hao nhà chứa trước,
Phương châm gìn rõ chánh cùng tà.
Thâu
Mắc, con nghe: (Nguyễn Văn Mắc)Chánh tà con đủ thấy con đường,
Biết ý rằng Thầy để dạ thương.
Làm lụng công trình ra sức trẻ,
Giữ gìn cho vẹn đạo tào khương.
Biết ý rằng Thầy để dạ thương.
Làm lụng công trình ra sức trẻ,
Giữ gìn cho vẹn đạo tào khương.
Thầy biết lòng con, con hiểu dạ Thầy, gắng công hành Ðạo nghe.
Ðỗ Quan Ngự:Khương Hi bất phục Hớn trào vong,
Thiên tải hưng suy nhử kiến đồng.
Thạch đảo lãng xâm phong khí hoại,
Từ tâm đức vượng thạnh kỳ phòng.
Thiên tải hưng suy nhử kiến đồng.
Thạch đảo lãng xâm phong khí hoại,
Từ tâm đức vượng thạnh kỳ phòng.
Thâu
Nguyễn Thanh Vân:Phòng cơn biển nọ hóa vườn dâu,
Chưa hết quan viên há hết chầu.
Cái bả vinh huê đời rối rắm,
Nguồn đào thong thả đã là đâu.
Chưa hết quan viên há hết chầu.
Cái bả vinh huê đời rối rắm,
Nguồn đào thong thả đã là đâu.
Thâu
Nguyễn Học Dần: Ðâu vui nước trí với non nhân,
Lòn lõi công danh khổ phận thân.
Nực nội trong lòng lo lúng túng,
Ðài mây để bước khá nơi chân.
Lòn lõi công danh khổ phận thân.
Nực nội trong lòng lo lúng túng,
Ðài mây để bước khá nơi chân.
Thâu
Ngô Văn Ðiều:Noi chân theo dõi Thánh Hiền xưa,
Từng tuổi đời qua cũng đã vừa.
Khôn khéo khá lo âm chất để,
Phẩm Tiên nẽo tục chẳng thừa ưa.
Từng tuổi đời qua cũng đã vừa.
Khôn khéo khá lo âm chất để,
Phẩm Tiên nẽo tục chẳng thừa ưa.
Thâu
Mai Văn Thạch:Thừa ưa đến buổi đặng chơi Tiên,
Chẳng mất công phu chẳng tốn tiền.
Ái ngại lòng trông mong đến thử,
Coi nền Ðạo mới thiệt linh thiêng.
Ngô Văn Quới:Chẳng mất công phu chẳng tốn tiền.
Ái ngại lòng trông mong đến thử,
Coi nền Ðạo mới thiệt linh thiêng.
Linh thiêng cùng chẳng tại lòng mình,
Thương trẻ có công gắng đến xin.
Thầy dặn chừng mô nghe tiếng hạc,
Thì đưa tay vói níu khuôn linh.
Thương trẻ có công gắng đến xin.
Thầy dặn chừng mô nghe tiếng hạc,
Thì đưa tay vói níu khuôn linh.
Thâu
Nguyễn Văn Quờn:Khuôn linh chẳng phụ kẻ lòng thành,
Nhưng cám chút tình đến trước kinh.
Thành bại lẽ thường lo cũng uổng,
Ðể công dạy kẻ biết nguồn lành.
Nhưng cám chút tình đến trước kinh.
Thành bại lẽ thường lo cũng uổng,
Ðể công dạy kẻ biết nguồn lành.
Thâu
Nguyễn Văn Nhuộm:Nguồn lành là chốn rất an nhàn,
Trước mắt đâu xa hỏi nẻo sang.
Trần tục là nơi lo lấy của,
Cảnh Tiên là chốn hưởng vinh sang.
Trước mắt đâu xa hỏi nẻo sang.
Trần tục là nơi lo lấy của,
Cảnh Tiên là chốn hưởng vinh sang.
Thâu
Trang Văn Ðó: (Tổng Giai Hóa)Sang như Tần Thỉ lúc đương hưng,
Chừng quá ba đời hết các lân.
Lấp biển còn chờ ngày biển sụp,
Thành Tiên, thành Phật khó trăm lần.
Chừng quá ba đời hết các lân.
Lấp biển còn chờ ngày biển sụp,
Thành Tiên, thành Phật khó trăm lần.
Thâu
Phan Văn Phường:Trăm lần nặng nhẹ cuộc đời xây,
Chứa hết sức con lại đến Thầy.
Tranh cạnh mượn người lo tính trước,
Ðẹp lòng nhân sự đặng lòng đây.
Chứa hết sức con lại đến Thầy.
Tranh cạnh mượn người lo tính trước,
Ðẹp lòng nhân sự đặng lòng đây.
Thâu
Phan Văn Muôn:Lòng đây nào có khác chi phàm,
Biết đặng Ðạo rồi mới biết ham.
Ðưa đẩy ít ai dè có Lão,
Nếu đời thấy đặng chẳng người tham.
Biết đặng Ðạo rồi mới biết ham.
Ðưa đẩy ít ai dè có Lão,
Nếu đời thấy đặng chẳng người tham.
Thâu
Hà Văn Như:Tham chi thế sự lắm đua tranh,
Cái miếng đỉnh chung xúm giựt giành.
Bỏ hết trong cơn mê một giấc,
Trăm năm ngắn ngủi nhớ làm lành.
Cái miếng đỉnh chung xúm giựt giành.
Bỏ hết trong cơn mê một giấc,
Trăm năm ngắn ngủi nhớ làm lành.
Thâu
Ngô Văn Hoài:Làm lành cho trọn Phật Trời thương,
Hai chữ hơn thua chớ liệu lường.
Mầng thiệt là khi nương cảnh tịnh,
Khen khen giận ghét kẻ đời thường.
Hai chữ hơn thua chớ liệu lường.
Mầng thiệt là khi nương cảnh tịnh,
Khen khen giận ghét kẻ đời thường.
Thâu
Ðoàn Văn Bổn:Ðời thường chẳng rõ lẽ nên hư,
Chưa biết mà chê mới lạ chừ.
Thiệt thiệt hư hư con chớ ngại,
Gắng công theo dõi biết khôn hư.
Chưa biết mà chê mới lạ chừ.
Thiệt thiệt hư hư con chớ ngại,
Gắng công theo dõi biết khôn hư.
Thâu
Lê Văn Hợi:Bư như Ðạo chích thế khen khôn,
Khôn giống ông Nhan gọi chẳng hồn.
Lời lẽ đố con phân thiệt giả,
Khôn khôn, dại dại cũng đồng phồn.
Khôn giống ông Nhan gọi chẳng hồn.
Lời lẽ đố con phân thiệt giả,
Khôn khôn, dại dại cũng đồng phồn.
Thâu
---Phụ ghi: Bư như Ðạo chích... chúng tôi nghĩ là: Hư như Ðạo chích... vì liên vận với bài thi trước đó: Gắng công theo dõi biết khôn hư.
V. Phên:
Ðồng phồn đưa rước viếng Diêm Cung,
Ai đã trước đi hỏi nhắn cùng.
Trời với Diêm Ðình đôi ngõ trở,
Muốn toan thoát tục liệu mà dùng.
Ai đã trước đi hỏi nhắn cùng.
Trời với Diêm Ðình đôi ngõ trở,
Muốn toan thoát tục liệu mà dùng.
Thâu
Tắc phải về, Chư Ái Nữ cầu Ðạo.
Thầy thâu hết.
Ca thị, con lấy tên hết rồi mai Thầy cho thơ.
---ooo---Mardi 23 Novembre 1926 (19-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Nhu, Hỉ Chư Tín Nữ,
Trung, Trang mai nầy hai con biểu Tương và Hóa lên nghe Thầy dạy việc nghe.
Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ.
Nguyễn Văn Bảy:Mặt sắt vô tư đã tiếng đồn,
Khai nên cơ nghiệp định kiêm môn.
Lòng thành một tấm nâng non nước,
Quyết dở ngửa nghiêng lách phúc bồn.
Khai nên cơ nghiệp định kiêm môn.
Lòng thành một tấm nâng non nước,
Quyết dở ngửa nghiêng lách phúc bồn.
Sau trọng dụng.
Trương Văn Mùi:Phúc bồn thế cuộc tưởng như in,
Cam khổ công khanh mới biết mình.
Oằn oại đôi vai trung nghĩa gánh,
Nên hư giúp thế để mình khinh.
Cam khổ công khanh mới biết mình.
Oằn oại đôi vai trung nghĩa gánh,
Nên hư giúp thế để mình khinh.
Thâu
Nguyễn Văn Cảnh: Bình Trưng, Mỹ Tho.Mình khinh hóa trọng đức hơn tài,
Một mảy lợi danh trối kệ ai.
Tâm tánh quan phòng mình biết lấy,
Ðẩy đưa mặt thế trổi khoe tài.
Một mảy lợi danh trối kệ ai.
Tâm tánh quan phòng mình biết lấy,
Ðẩy đưa mặt thế trổi khoe tài.
Thâu
Nguyễn Văn Ðài: Bình Trưng, Mỹ Tho.Khoe tài phải có nét anh tài,
Dưới thế xem tường chẳng đặng hai.
Bủa lưới Càn Khôn lừa lọc khách,
Chơn trời chẳng kẻ thoát cao bay.
Dưới thế xem tường chẳng đặng hai.
Bủa lưới Càn Khôn lừa lọc khách,
Chơn trời chẳng kẻ thoát cao bay.
Thâu
Trang Văn Keo: (Tây Ninh)Cao bay xa chạy đã hay chi,
Chưa biết loạn bình lúc trợ nguy.
Ôm nết vó quàng lo khống khứ,
Cũng như chú dốt đến trường thi.
Chưa biết loạn bình lúc trợ nguy.
Ôm nết vó quàng lo khống khứ,
Cũng như chú dốt đến trường thi.
Thâu
Trần Văn Liêng: (Tây Ninh)Trường thi đã đỗ bốn vi ngoài,
Phải rán khi nên chức Tú tài.
Nhơn bởi ít công lo phận sự,
Mình nên chẳng rán đến cầu ai.
Phải rán khi nên chức Tú tài.
Nhơn bởi ít công lo phận sự,
Mình nên chẳng rán đến cầu ai.
Thâu
Ðào Văn Xồi: (Bình Thành, Tân An)Cầu ai mở đặng khiếu thông minh,
Thờ phượng Thầy khuyên trẻ hết tình.
Công của đôi bên trao múc đủ,
Ðừng như kẻ yếu đợi người binh.
Thờ phượng Thầy khuyên trẻ hết tình.
Công của đôi bên trao múc đủ,
Ðừng như kẻ yếu đợi người binh.
Thâu
Trần Văn Huê:Người binh con khá biết binh người,
Chớ chịu ơn dày phải hổ ngươi.
Tánh hạnh khá trau thuần hậu lại,
Nên danh có thuở đặng nên thời.
Chớ chịu ơn dày phải hổ ngươi.
Tánh hạnh khá trau thuần hậu lại,
Nên danh có thuở đặng nên thời.
Thâu
Lê Văn Khuynh:Nên thời vương bá lúc ngồi câu,
Lựa phải cửa công đến chực hầu.
Thú vị tố nào chìu tố nấy,
Riêng vui Thuấn trước mến bầy trâu.
Lựa phải cửa công đến chực hầu.
Thú vị tố nào chìu tố nấy,
Riêng vui Thuấn trước mến bầy trâu.
Thâu
Bùi Ngọc Hổ:Bầy trâu đốt đít để gương xưa,
Nhơn lý khuyên con gắng lọc lừa.
Quá sức trí người đừng ngưỡng vọng,
Thành gia nhiều kẻ đã nên chưa?
Nhơn lý khuyên con gắng lọc lừa.
Quá sức trí người đừng ngưỡng vọng,
Thành gia nhiều kẻ đã nên chưa?
Thâu
Lê Văn Nhung:Nên chưa giúp Hớn buổi hưng vong,
Gia Cát xưa kia chẳng khỏi vòng.
Thuận lý Trời nên hư mới rõ,
Qua rồi trọn kiếp biết anh hùng.
Gia Cát xưa kia chẳng khỏi vòng.
Thuận lý Trời nên hư mới rõ,
Qua rồi trọn kiếp biết anh hùng.
Thâu
Trần Văn Nên:Anh hùng gặp thế rán đua chen,
Con giống như con bướm mến đèn.
Thầy hỏi như tu con khá nhớ,
Làm sao Thầy đặng để lời khen.
Con giống như con bướm mến đèn.
Thầy hỏi như tu con khá nhớ,
Làm sao Thầy đặng để lời khen.
Thâu
Phạm Văn Lắm: (Long Thành, Tây Ninh)Lời khen miệng thế quí chi đâu,
Bất quá như son lộn bả trầu.
Thành thật thôi thì mình xử lấy,
Ðèo bồng chi rộn trí không sâu.
Bất quá như son lộn bả trầu.
Thành thật thôi thì mình xử lấy,
Ðèo bồng chi rộn trí không sâu.
Thâu
Ngô Văn Xiên: Lạ chưa? (Trường Hòa, Tây Ninh)Không sâu trí thức hiếu hơn người,
Nếu chẳng mắt Thầy hỏi có ngươi.
Thương cửa bần hàn mà xuất Thánh,
Nếu thâu tức khắc hiếm người cười.
Nếu chẳng mắt Thầy hỏi có ngươi.
Thương cửa bần hàn mà xuất Thánh,
Nếu thâu tức khắc hiếm người cười.
Thâu
Trần Văn Hương: (Long Thành)Cười như Lữ Vọng lúc suy thời,
Chẳng lái chẳng chèo khó nổi bơi.
Ðưa rước cho qua cơn khách đón,
Thân còn chẳng tiếc lựa là lời.
Chẳng lái chẳng chèo khó nổi bơi.
Ðưa rước cho qua cơn khách đón,
Thân còn chẳng tiếc lựa là lời.
Thâu
Trang V. Khách: (Long Thành, Tây Ninh)Lời vàng nhắn hỏi khách trần gian,
Một nẻo đường Tiên đáng mấy ngàn.
Bụi đất của trần là của tục,
Chưa ai đem đổi cảnh an nhàn.
Một nẻo đường Tiên đáng mấy ngàn.
Bụi đất của trần là của tục,
Chưa ai đem đổi cảnh an nhàn.
Thâu
Nguyễn Văn De: (Long Thành)An nhàn gió túi với trăng sân,
Ràng buộc cân đai chịu mạng thần.
Quân nhược thần cường đời trở vẻ,
Thanh thanh sĩ sĩ khó đai cân.
Ràng buộc cân đai chịu mạng thần.
Quân nhược thần cường đời trở vẻ,
Thanh thanh sĩ sĩ khó đai cân.
Thâu
Mắc! Mời Mắc, Ái nữ nghe.
Vợ Tư Mắc:Thầy dạy:
Nắm chặt trăm năm một chữ đồng,
Hễ chồng thì của vợ thì công.
Trợ nguy tế hiểm con ra sức,
Ðạo đức chung lo trọn tấc lòng.
Hễ chồng thì của vợ thì công.
Trợ nguy tế hiểm con ra sức,
Ðạo đức chung lo trọn tấc lòng.
Thầy cám Ái nữ. Mắc! Vợ con nó lại bị khiếm huyết mà biến nhiều bịnh; mùa nầy chẳng nên uống thuốc Tàu, Thầy dặn con tuân theo toa Thầy mà cho nó uống Bilinne.
Trịnh Thị Thình:Cân đường tội phước đấp nền nhân,
Chớ lấy giữ riêng để dạ hờn.
Mình lánh kẻ tà mình ắt chánh,
Khốn chi tính thiệt với so hơn.
Chớ lấy giữ riêng để dạ hờn.
Mình lánh kẻ tà mình ắt chánh,
Khốn chi tính thiệt với so hơn.
Thâu
Lê Thị Chánh:So hơn đức hạnh mới nên giành,
Cái lưỡi không xương thiệt quá lanh.
Chơn thật bẻ bai ra xảo quyệt,
Trên đời kẻ dữ hóa làm lành.
Cái lưỡi không xương thiệt quá lanh.
Chơn thật bẻ bai ra xảo quyệt,
Trên đời kẻ dữ hóa làm lành.
Con nghe mà cư xử đời nghe.
Ngô Thị Chuộng:Làm lành để đức hưởng thân sau,
Ðừng tiếc chi mang lấy sắc màu.
Lầm lũi ai đi mình cũng bước,
Mau chơn tới trước chửa chi cao.
Ðừng tiếc chi mang lấy sắc màu.
Lầm lũi ai đi mình cũng bước,
Mau chơn tới trước chửa chi cao.
Lý Thị Chi:
Cao sâu máy Tạo khó đong lường,
Thiệt bực mới vào cửa niệm hương.
Trăm nỗi khó khăn ngăn trở dạ,
Phải thương mình mới biết cao lương.
Lâm Thị Kỉnh:Thiệt bực mới vào cửa niệm hương.
Trăm nỗi khó khăn ngăn trở dạ,
Phải thương mình mới biết cao lương.
Cao lương đừng tưởng giống cao quyền,
Quyền lớn là vì trước có duyên.
Ðạo khó nắm tay nên mới quí,
Chẳng như củi mục mới xem thường.
Quyền lớn là vì trước có duyên.
Ðạo khó nắm tay nên mới quí,
Chẳng như củi mục mới xem thường.
( Cho kẻ ngoài)
Nguyễn Thị Tý:Xem thường dưới mắt dở cùng hay,
Ngặt độ cho ra chẳng kẻ bày.
Ðạo đức cũng như mua buổi chợ,
Dở ngon mắc rẻ miệng mình nài.
Ngặt độ cho ra chẳng kẻ bày.
Ðạo đức cũng như mua buổi chợ,
Dở ngon mắc rẻ miệng mình nài.
Thâu
Huỳnh Thị Hội:Nài bao cực nhọc gắng tầm Tiên,
Thầy một điều khuyên ấy tập hiền.
Lỡ buổi trước kia chưa thấy Phật,
Còn nay công tội có người biên.
Thầy một điều khuyên ấy tập hiền.
Lỡ buổi trước kia chưa thấy Phật,
Còn nay công tội có người biên.
Thâu
Nguyễn Thị Ba: (Ðỗ Thị Mài)Người biên ra vẻ nét nhà xưa,
Ðức hạnh trung trinh cũng khá thừa.
Giúp thế nhiều phen con sẵn dạ,
Nhơn là một nết của Thầy ưa.
Ðức hạnh trung trinh cũng khá thừa.
Giúp thế nhiều phen con sẵn dạ,
Nhơn là một nết của Thầy ưa.
Thâu
Phan Thị Nghiêm:Ưa nghe đạo đức ghét tà tây,
Ngưỡng mộ thì nay đã gặp Thầy.
Chẳng mắc đưa lời vào dạ trẻ,
Thường ngày cầu nguyện dạ đừng khuây.
Ngưỡng mộ thì nay đã gặp Thầy.
Chẳng mắc đưa lời vào dạ trẻ,
Thường ngày cầu nguyện dạ đừng khuây.
Thâu
Phạm Thị Hiệp:Ðừng khuây những tiếng thiện lời thành,
Tấc dạ con gìn một chữ trinh.
Lợi khổ danh nguy con chớ vọng,
Khá lo cho đặng chốn hiền lành.
Tấc dạ con gìn một chữ trinh.
Lợi khổ danh nguy con chớ vọng,
Khá lo cho đặng chốn hiền lành.
Thâu
Bùi Thị Khuê:Hiền lành là phước dẫn nguồn Tiên,
Chưa đặng trọn chưng khách cửu tuyền.
Lo thế nhớ hồi lo phận trước,
Thân trăm tuổi chẳng trọn như nhiên.
Chưa đặng trọn chưng khách cửu tuyền.
Lo thế nhớ hồi lo phận trước,
Thân trăm tuổi chẳng trọn như nhiên.
Thâu
Ðặng Thị Nẵm:Như nhiên lành phước dữ tai ương,
Một trả một vay cũng lẽ thường.
Con muốn nên nhà lo lập nghiệp,
Muốn qua sông cả phải nương thuyền.
Một trả một vay cũng lẽ thường.
Con muốn nên nhà lo lập nghiệp,
Muốn qua sông cả phải nương thuyền.
Thâu
Nguyễn Thị Cung:Nương thuyền qua thử khỏi sông mê,
Chẳng có công danh cũng có bề.
Vững chặt nhà làng con cháu thảo,
Tu thân thường hiệp với tu tề.
Chẳng có công danh cũng có bề.
Vững chặt nhà làng con cháu thảo,
Tu thân thường hiệp với tu tề.
Thâu
Trần Thị Vang:Tu tề thì sửa vẹn gia đình,
Cái đạo nhơn luân chớ dể khinh.
Ðạo đức để gương con cháu học,
Trăm năm ngàn thuở phước nhà in.
Cái đạo nhơn luân chớ dể khinh.
Ðạo đức để gương con cháu học,
Trăm năm ngàn thuở phước nhà in.
Thâu
Trần Thị Hạp:In như Tề phụ chịu hàm oan,
Nết Thánh mà ai cũng gọi phàm.
Dưới thế hiếm người toan hiếp đáp,
Thương thay một mạng bỏ nơi nhàn.
Nết Thánh mà ai cũng gọi phàm.
Dưới thế hiếm người toan hiếp đáp,
Thương thay một mạng bỏ nơi nhàn.
Thâu
Bùi Thị Nga: (Long Thành, Tây Ninh)Nơi nhàn đâu đến đọa hồng trần,
Lành dữ vì chưng chẳng biện phân.
Nơi mái tây hiên Trời ngó mắt,
Lúc nên khi đến cũng còn gần.
Lành dữ vì chưng chẳng biện phân.
Nơi mái tây hiên Trời ngó mắt,
Lúc nên khi đến cũng còn gần.
Thâu
---ooo---Mardi séance du 23 Novembre 1926 (18-10-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Các con chớ phiền hà chuyện Thánh Thất, chuyện xảy ra ấy cũng là một bước trắc trở trong đường Ðạo của Thầy. Thầy còn phải đau lòng thay, nhưng cũng là nơi Thiên cơ vậy, Thầy hằng biết công của các con, nhưng Thầy phải cực lòng chìu theo ý của mỗi đứa mà vun đấp nền Ðạo. Vì vậy mà nhiều sự xảy ra đều do nơi tâm chí của nhiều đứa. Thầy hằng dùng tâm chí của các con mà bố mọi điều thiết yếu trong việc đạo đức. Sự xảy ra nơi Thánh Thất, tuy là nơi mối Ðạo chậm trễ, nhưng cũng do nơi lòng tà vạy của nhiều đứa mà ra. Duy tâm trung chánh đáng thì là làm cốt cho Tiên Thánh; còn tâm chí vạy tà là chỗ của tà quái xung nhập.
Chi chi cứ tưởng có Thầy giúp mà lập xong nền Ðạo cho các con là đủ. Thầy cũng có phép răn trị kẻ vạy tà. Các con duy có trông cậy nơi Thầy, bước đường cứ thủng thẳng đi lần tới, đừng gấp quá mà cũng chớ thối lui thì một ngày kia sẽ đặng toại kỳ sở nguyện.
Thầy ban ơn cho các con. Thầy thăng.
----------------Ngày 24-11-1926 (âl. 19-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy "... Từ khai Thiên lập Ðịa Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao những điều khổ hạnh, mấy lần lao lý,...".
Séance du 24 Novembre 1926 (19-10-Bính Dần)THẦY
Các con,
Các con, Thầy nghĩ lại việc hôm nọ tại Thánh Thất biến ra một trường tà quái, mà Thầy bắt đau lòng đó các con. Các con thiết nghĩ ra lẽ nào?
Mỹ Ngọc: Bạch Thầy tại vài ông Thiên Phong làm chuyện lôi thôi nên mới có quỉ yêu xung nhập.
- Phải, bởi cái lếu của chúng nó mà sanh việc ngày hôm nay.
Mỹ Ngọc: Bạch Thầy trong Môn Ðệ có nhiều người ngã lòng.
- Bất bình lắm hả?
- Nhưng trong Thiên Phong có vài ông mà thôi.
- Cũng có nhiều chớ sao con nói ít vậy con? Ðó là bước Ðạo, đó là Thiên cơ, các con hiểu sao được, nhưng Thầy buồn vì có nhiều đứa sàm biện về việc ấy. Thầy cũng muốn phạt chúng nó một cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương đó chút. Môn Ðệ của Thầy đứa muốn bỏ Ðạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi bước Ðạo gập ghình khó tới nên mới ra cớ đổi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi phú quí, mê chữ vinh sang mà ngán.
Các con hiểu Thầy buồn, nhưng ấy là máy Trời đã định, chạy sao cho khỏi? Thầy biết bao lần vì các con mà chịu nhọc nhằn.
Từ khai Thiên lập Ðịa Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao những điều khổ hạnh, mấy lần lao lý, mấy lúc vang mày nuôi nấng các con hầu lập nên nền Ðạo; cũng tưởng các con lấy đó mà làm đuốc soi mình đặng bỏ tà qui chánh. Mấy lần vun đấp nền Ðạo Thầy đều cũng bị bây mà hư giềng Ðạo cả.
Thầy buồn đó các con.
Thầy ban ơn cho các con, Thầy thăng.
----------------Ngày 25-11-1926 (âl. 20-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy "... Ðường càng dài, bước càng nhọc thì nền Ðạo càng cao, công trình càng rỡ...".
Mercredi 25 Novembre 1926 (20-10-Bính Dần)NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Môn Ðệ, Chư Ái Nữ, Chư Chúng Sanh,
Các con nghe Thầy: Sự biến xảy ra đến nay đã trở thành một trường ngôn luận, có khi cũng náo nhiệt đến nền Ðạo. Kẻ gọi tà, người nói chánh, nơi Thiên Thơ đã có dấu ràng ràng, các con có đi tranh luận cũng nhọc công vô ích. Kẻ hữu phần người vô phước, tin tin, không không cũng chẳng sửa cơ Trời đặng.
Ðường càng dài, bước càng nhọc thì nền Ðạo càng cao, công trình càng rỡ. Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó đã nhiểm luyến đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước. Thầy cũng phải đau lòng mà nắm máy huyền vi để cơ Trời xây đổi, các con nên liệu lấy.
Nơi đây là Thánh Ðịa, Thầy đã chọn chánh chỗ Thánh Thất là đây mà thôi.
Thơ! Con chẳng nên lo xa nữa nghe. Thầy giao sự sắp đặt hành tàng về mọi sự Thánh Thất cho Trung, Tương, Trang, Hóa, làm sao nơi đây cho đặng vững vàng khỏi điều trắc trở. Bốn con nên lưu ý, nhứt là Trang, con hiểu Thầy chăng con? Bốn con điều đình chung lo, có Thầy biết điều thiết yếu và sẽ làm cho các con đặng toại kỳ sở nguyện.
Trung! Nơi Ðàn thứ hai tới đây, con nhớ cho các Thánh nội Sài Gòn và Chợ Lớn hay đặng đến hết cho Thầy dạy nghe.
Thầy tưởng dùng máy đèn có khi làm cho mất sự tịnh trong lúc hành lễ mỗi Ðàn, nhưng đã có rồi, con liệu tùy tiện mà làm sao cho êm tịnh.
Trung! Cho Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ.
Ngô Trung Bình:Nguồn Ðạo tìm vào đã tận nơi,
Rán đưa chơn tục chí đừng dời.
Bao nhiêu lỗi trước tua kềm sửa,
Căn mạng nên Ta phải để lời.
Rán đưa chơn tục chí đừng dời.
Bao nhiêu lỗi trước tua kềm sửa,
Căn mạng nên Ta phải để lời.
Thượng.
Trương Quang Huê:Lời ngay mích bụng dạ đừng nao,
Mong mỏi đường theo cửa Ðạo vào.
Vào đặng thấy nguy đừng trở bước,
Bước an chí ấy mới thanh cao.
Mong mỏi đường theo cửa Ðạo vào.
Vào đặng thấy nguy đừng trở bước,
Bước an chí ấy mới thanh cao.
Thượng.
Nguyễn Hữu Trinh:Thanh cao tập chí mắt xem thời,
Ðời thấy đã nhiều chán nữa thôi.
Thôi rán lần đường dò bước trễ,
Trễ lâu cũng tới chí đừng lơi.
Ðời thấy đã nhiều chán nữa thôi.
Thôi rán lần đường dò bước trễ,
Trễ lâu cũng tới chí đừng lơi.
Thượng.
Nguyễn Văn Thành:Chí đừng lơi mới đáng trượng phu,
Mượn nhành dương rưới khỏa cơn sầu.
Rừng chiều ác lặn con trăng lố,
Chậm rãi đường về bước trở thu.
Mượn nhành dương rưới khỏa cơn sầu.
Rừng chiều ác lặn con trăng lố,
Chậm rãi đường về bước trở thu.
Thượng.
Hà Văn Hành:Thu về Ðông vội trở màu sầu,
Sầu thảm chờ qua lúc đớn đau.
Ðau bước đường xa hầu đến chốn,
Chốn nao đạo hạnh tập tâm cầu.
Sầu thảm chờ qua lúc đớn đau.
Ðau bước đường xa hầu đến chốn,
Chốn nao đạo hạnh tập tâm cầu.
Thượng.
Nguyễn Văn Lục:Tập tâm cầu Ðạo chớ sơ sai,
Chí ấy sau nhờ vận hội may.
Tòng lảnh chim chiều con lạc cánh,
Lần đường chớ nệ dặm đường dài.
Chí ấy sau nhờ vận hội may.
Tòng lảnh chim chiều con lạc cánh,
Lần đường chớ nệ dặm đường dài.
Thượng.
Huỳnh Văn Kiêu:Ðường dài vắng bước nỗi quanh co,
Ðường bước từ nơi rán chí dò.
Dò đến hang Thần nghe hạc gáy,
Gáy non Nam Việt có Trời lo.
Ðường bước từ nơi rán chí dò.
Dò đến hang Thần nghe hạc gáy,
Gáy non Nam Việt có Trời lo.
Thượng.
Nguyễn Văn Út:Trời lo đâu nệ nhọc công trình,
Nhọc sức vì thương đám chúng sanh.
Sanh dưỡng, dưỡng sanh rồi phải độ,
Ðộ cho trở bước lại đơn đình.
Nhọc sức vì thương đám chúng sanh.
Sanh dưỡng, dưỡng sanh rồi phải độ,
Ðộ cho trở bước lại đơn đình.
Thượng.
Mai Văn Thành:Ðình bước vì chưng ngán bước đường,
Ðường mơi thơ thới cỏ phơi sương.
Sương nồng nhánh liễu chim bay liệng,
Luyện đặng trường sanh thoát thế thường.
Ðường mơi thơ thới cỏ phơi sương.
Sương nồng nhánh liễu chim bay liệng,
Luyện đặng trường sanh thoát thế thường.
Thượng.
... ... ...Thường ngày cay đắng phải âu lo,
Ðộ dẫn nhằm nơi phải gắng dò.
Trau tánh ôn hòa chừa cải trước,
Dựa hơi rừng quế cũng thơm tho.
Ðộ dẫn nhằm nơi phải gắng dò.
Trau tánh ôn hòa chừa cải trước,
Dựa hơi rừng quế cũng thơm tho.
Thượng.
Lý Thị Há:Lý diệp chờ xuân nhánh trổ bông,
Thị thành chen lấn lại rừng tòng.
Há đem tấc nguyện làm công quả,
Bước tục nhờ may bước khỏi vòng.
Thị thành chen lấn lại rừng tòng.
Há đem tấc nguyện làm công quả,
Bước tục nhờ may bước khỏi vòng.
Thượng.
Tô Quế Tươi:Khỏi vòng mê tín lại đường ngay,
Lạc nẻo mau chơn liệu trở quày.
Ðạo đức để lòng từ ấy giữ,
Chủ trung đã gặp Ðấng Cao Ðài.
Lạc nẻo mau chơn liệu trở quày.
Ðạo đức để lòng từ ấy giữ,
Chủ trung đã gặp Ðấng Cao Ðài.
Ðài các chưa từng miếng ngọt ngon,
Rán công hậu kiếp đặng vuông tròn.
Tròn nền đạo đức nghèo là quí,
Quí gặp hồng đem điểm bức son.
Rán công hậu kiếp đặng vuông tròn.
Tròn nền đạo đức nghèo là quí,
Quí gặp hồng đem điểm bức son.
Thầy thâu hết hai bên Nam và Nữ.
Trung, con gởi tin cho Khỏe ở Bạc Liêu rằng: Thầy đã chứng và khen lòng thiết thạch của nó. Nó bị sự cản trở chẳng đặng hầu Thầy mà thọ phong Thiên Ân.
Nhưng cứ việc độ rỗi làm xong phận sự, Thầy sẽ gia phong. Thầy ban ơn cho các con.
-----------------Ngày 26-11-1926 (âl. 21-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Jeudi 26 Novembre 1926 (21-10-Bính Dần)Thinh danh mãn thế đức tồn linh,
Thanh trực nhứt triêu quán thế tình.
Hữu phước độ nhơn chiêu vạn tánh,
Cần lao thống hiệp hậu gia đình.
Thanh trực nhứt triêu quán thế tình.
Hữu phước độ nhơn chiêu vạn tánh,
Cần lao thống hiệp hậu gia đình.
Hoàng triều hiệp nghĩa nam Thiên vận,
Phụ Hớn hưng suy vấn Khổng Minh.
Nhựt nguyệt song quang thùy bạch chuyển,
Hồn quân vị vãn đáo hầu thần.
Phụ Hớn hưng suy vấn Khổng Minh.
Nhựt nguyệt song quang thùy bạch chuyển,
Hồn quân vị vãn đáo hầu thần.
Con khá kiếm cao xa mà hiểu nghe, còn nội trợ con, Thầy dạy:
Bạch truật tinh sao khả phục qui,
Tứ quân tu trạch khảo trần bì.
Thanh chi hữu hiệp tam phân phụ,
Liên thạch cầu đa bất phạt tì.
Tứ quân tu trạch khảo trần bì.
Thanh chi hữu hiệp tam phân phụ,
Liên thạch cầu đa bất phạt tì.
Trong ấy có bài thuốc và kiếm nghĩa bài thi, nhớ lời căn dặn.
Nguyễn Thị Quít: (Cẩm Giang, Triêm Hóa)Nên nhà đã lập hiếm phương hay,
Ðường Ðạo Thầy khuyên .... cúng tài.
Mới thấy con chưa từng phải quấy,
Khá chờ xem thử biết Thầy hay.
Ðường Ðạo Thầy khuyên .... cúng tài.
Mới thấy con chưa từng phải quấy,
Khá chờ xem thử biết Thầy hay.
Thâu
Phạm Thị Hóa: (Long Thành, Tây Ninh)Thầy hay thương mến lũ con hoang,
Song chớ ỷ y phải ngỡ ngàng.
Nếu biết tánh so đo đắn phận,
Dầu nhiều cay đắng cũng thanh nhàn.
Song chớ ỷ y phải ngỡ ngàng.
Nếu biết tánh so đo đắn phận,
Dầu nhiều cay đắng cũng thanh nhàn.
Thâu
Trần Thị Phụng:Thanh nhàn nhờ hứng giọt Cam Lồ,
Ðâu bẵng vui riêng nết Lão Tô.
Cực nhọc buồn vui đời đã chán,
Thôi thôi tự toại niệm Nam Mô.
Ðâu bẵng vui riêng nết Lão Tô.
Cực nhọc buồn vui đời đã chán,
Thôi thôi tự toại niệm Nam Mô.
Thâu
Ðoàn Thị Liên:Nam Mô hai chữ dựa màu thiền,
Ðến nửa kiếp còn lắm lợi riêng.
Gia nghiệp đã an con cái đủ,
Khá tua cửa Phạm đến cầu duyên.
Ðến nửa kiếp còn lắm lợi riêng.
Gia nghiệp đã an con cái đủ,
Khá tua cửa Phạm đến cầu duyên.
Thâu
Ðặng Thị É:Cầu duyên Phật khử oan gia,
Trái chủ đừng khinh gánh đến già.
Lựa chọn đã .... nơi đạo đức,
Sau quên ngước mặt ngó đầu nhà.
Trái chủ đừng khinh gánh đến già.
Lựa chọn đã .... nơi đạo đức,
Sau quên ngước mặt ngó đầu nhà.
Thâu
Ðỗ Thị Diệu:Ðầu nhà có mắt ngó người hiền,
Con vốn giòng lành Lão mới khuyên.
Nếu muốn khử tiêu tai nạn đến,
Thì nên khẩn nguyện sợ oai quyền.
Con vốn giòng lành Lão mới khuyên.
Nếu muốn khử tiêu tai nạn đến,
Thì nên khẩn nguyện sợ oai quyền.
Thâu
Nguyễn Thị Dự:Oai quyền làm chủ Phật, Tiên, Thần,
Chẳng vị song cầm vững nét cân.
Hỏi kẻ còn ai hơn thế nữa,
Thì toan đến khẩn độ phàm thân.
Chẳng vị song cầm vững nét cân.
Hỏi kẻ còn ai hơn thế nữa,
Thì toan đến khẩn độ phàm thân.
Thâu
Lê Thị Chi:Phàm thân thương kẻ lắm lao đao,
Bởi kiếp tiền khiên trả chớ sao.
Thành dạ tu tầm Thầy sửa số,
Ðem qua biển khổ chẳng ba đào.
Bởi kiếp tiền khiên trả chớ sao.
Thành dạ tu tầm Thầy sửa số,
Ðem qua biển khổ chẳng ba đào.
Thâu
Trương Văn Ðộng:Ba đào ngọn nước với nguồn sông,
Như một cây trôi ở giữa dòng.
Thấy vậy thương tình cho kẻ vớt,
Ðem về làm của với làm song.
Như một cây trôi ở giữa dòng.
Thấy vậy thương tình cho kẻ vớt,
Ðem về làm của với làm song.
Thâu. Thầy sẽ trọng dụng, khá học Ðạo.
Trang Văn Giáo:Làm song ngăn đón lũ gian hùng,
Mạnh yếu đánh thoi cũng gọi hùng.
Quyết lập thân danh tua sửa lưỡi,
Nói hiền kẻ dữ nịnh thành trung.
Mạnh yếu đánh thoi cũng gọi hùng.
Quyết lập thân danh tua sửa lưỡi,
Nói hiền kẻ dữ nịnh thành trung.
Thâu
Trịnh Văn Kỳ: Thầy phong con chức Giáo Hữu, nội một tuần con sắp đặt việc nhà cho an rồi đi phổ cáo trong tỉnh Tây Ninh, cho khắp hết các nơi nghe con.---ooo---
THẦY
Các con,
Thơ nó dâng sớ cầu... Cười...
Thầy cũng thương đó chút. Thầy đã nói cái lòng thương Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm trách các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật, biết sao cứu rỗi cho đặng.
Thầy lại phải làm thinh cho kẻ mất lẽ công bình.
Thơ nó tưởng Thầy giận mà nài xin tha thứ, Thầy thì đặng còn Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao; nhứt là Thái Bạch Kim Tinh rất khó, Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi.
Các con chớ dễ ngươi phạm thượng nghe à.
Chư Nhu thượng sớ.
M. Trung bạch Thầy về sự cốt Quan Thánh Ðế Quân.
- Không giống chi hết... Cười... làm cốt khác.
Ngô Văn Nhạc:Thân hay gánh vác nỗi nhà nên,
Chẳng chịu tìm ra kế vững bền.
Lập đặng rồi sợ ra đến đổ,
Nơi mình chẳng phải tội bề trên.
Chẳng chịu tìm ra kế vững bền.
Lập đặng rồi sợ ra đến đổ,
Nơi mình chẳng phải tội bề trên.
Nghe à... Thâu.
Nguyễn Văn Tàu:Bề trên thương dưới dắt dìu nhau,
Ví lỗi muôn xe cũng nhục bào.
Thêm sức tại nhà nay đã sẵn,
Nhiều cây nên núi dạo nương rào.
Ví lỗi muôn xe cũng nhục bào.
Thêm sức tại nhà nay đã sẵn,
Nhiều cây nên núi dạo nương rào.
Thâu
Nguyễn Văn Tám:Nương rào tòng bá núp Trời đông,
Trí đủ ... chưa phải thiện lòng.
Nên nghiệp đôi khi chưa tính trước,
Năm tròn trở ngại có mùa Ðông.
Trí đủ ... chưa phải thiện lòng.
Nên nghiệp đôi khi chưa tính trước,
Năm tròn trở ngại có mùa Ðông.
Thâu
Trg Văn Thành: (Cẩm Giang, Giai Hóa)Ðong đầy đức cả hóa kho vàng,
Ðừng thấy phận nghèo chiếp miệng than.
Cái cửa Thiêng liêng chưa dễ đặng,
Ðỉnh chung thế sự trấu cùng than.
Ðừng thấy phận nghèo chiếp miệng than.
Cái cửa Thiêng liêng chưa dễ đặng,
Ðỉnh chung thế sự trấu cùng than.
Thâu.
Huỳnh Văn Ngay:Than chưa ngún lửa cuộc đời qua,
Nhưng bởi mến con hứa đặng nhà.
Vợ dữ đưa lời đừng trả giọng,
Khen hiền trước phải biết chê tà.
Nhưng bởi mến con hứa đặng nhà.
Vợ dữ đưa lời đừng trả giọng,
Khen hiền trước phải biết chê tà.
Thâu
Trần Văn Chí:Chê tà trừ bạo lẽ như nhiên,
Song lưỡi gươm chưa sánh dạ hiền.
Ðức mạnh ba ngàn thâu thế giái,
Lòng thành làm khép mặt Thần Tiên.
Song lưỡi gươm chưa sánh dạ hiền.
Ðức mạnh ba ngàn thâu thế giái,
Lòng thành làm khép mặt Thần Tiên.
Thâu
--------------------------------Ngày 27-11-1926 (âl. 22-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ.
Vendredi 27 Novembre 1926 (22-10-Bính Dần)Hỉ các Ðẳng Nhơn Sanh,
Trung thượng sớ, lấy toa số 2 để sau con.
Phạm Văn Danh:Vì thương nhơn loại cực lòng Ta,
Ta hỏi nhơn sanh có biết à?
À Ðất Trời kia ai Tạo hóa,
Hóa sanh chung hưởng há quên già.
Ta hỏi nhơn sanh có biết à?
À Ðất Trời kia ai Tạo hóa,
Hóa sanh chung hưởng há quên già.
Thâu
Nguyễn Văn Chung:Quên già, già cũng một cười thôi,
Thôi kẻ quên ơn nói chẳng rồi.
Rồi cuộc tuần hườn sau mới rõ,
Rõ rồi hối hận việc thôi rồi.
Thôi kẻ quên ơn nói chẳng rồi.
Rồi cuộc tuần hườn sau mới rõ,
Rõ rồi hối hận việc thôi rồi.
Thâu
Võ Văn Nhàn: (Cẩm Giang, Tây Ninh)Thôi rồi một giấc biệt ngàn thu,
Thu muốn xuân về phải rán tu.
Tu luyện tua bền lòng sắt đá,
Ðá bền cũng phải đổ về Thu.
Thu muốn xuân về phải rán tu.
Tu luyện tua bền lòng sắt đá,
Ðá bền cũng phải đổ về Thu.
Thâu
Nguyễn Văn Quyến: (Cẩm Giang)Về thu chạnh dạ nhớ hồi xưa,
Xưa đã cam lòng đã rõ chưa.
Chưa rõ nay còn tìm tỏi đến,
Ðến nơi cửa Phật biết rồi chưa?
Xưa đã cam lòng đã rõ chưa.
Chưa rõ nay còn tìm tỏi đến,
Ðến nơi cửa Phật biết rồi chưa?
Rán tu kẻo muộn. Thâu.
Huỳnh Văn Ngô: (Hiệp Ninh, Tây Ninh)Rồi chưa Nhơn đạo đến cầu tu,
Tu ấy nặng nề lắm công phu.
Phu phỉ lòng kia phàm chưa dứt,
Dứt lòng trần tục sẽ xin tu.
Tu ấy nặng nề lắm công phu.
Phu phỉ lòng kia phàm chưa dứt,
Dứt lòng trần tục sẽ xin tu.
Thâu
Ðoàn Văn Nuôi: (Hòa Hưng, Rạch Giá)Xin tu phải rõ Ðạo là gì,
Vì chẳng đồi phong nẻo phải đi.
Ði đến tầng cao rồi biết thấp,
Thấp cao hai lẽ rõ là chi.
Vì chẳng đồi phong nẻo phải đi.
Ði đến tầng cao rồi biết thấp,
Thấp cao hai lẽ rõ là chi.
Thâu
Ngô Văn Hồng: (Hòa Hưng, Rạch Giá)Thấp cao hai lẽ rõ là chi,
Chi cũng chẳng qua biết thế thì.
Thì đặng thân hiền trăm tuổi thọ,
Thọ như ông Thọ sướng li bì.
Chi cũng chẳng qua biết thế thì.
Thì đặng thân hiền trăm tuổi thọ,
Thọ như ông Thọ sướng li bì.
Thâu
Phạm Văn Ðể: (Cẩm Giang, Tây Ninh)Li bì cảnh ngộ dạ hằng lo,
Lo chẳng đặng mà cũng rán lo.
Lo cửa lo nhà lo sức kém,
Kém vì chưa biết Ðạo nên lo.
Lo chẳng đặng mà cũng rán lo.
Lo cửa lo nhà lo sức kém,
Kém vì chưa biết Ðạo nên lo.
Phải xét mình cho lắm nghe! Thâu.
Trang Văn Khánh: (Long Thành, Tây Ninh)Nên lo cho đặng mối cang thường,
Thường bữa trau giồi cái tánh cương.
Cương trực lòng như người Thánh trước,
Trước làm quân tử tánh phi thường.
Thường bữa trau giồi cái tánh cương.
Cương trực lòng như người Thánh trước,
Trước làm quân tử tánh phi thường.
Thâu
Nguyễn Văn Liểng: (M. Trực, Lộc Ninh, Tổng Thanh Hóa, Rạch Giá)Phi thường hạnh ấy nghĩ mà lo,
Lo hết sức người mới thấy cho.
Cho cái kiếp trần danh với lợi,
Lợi gì cho bằng Ðạo Tiên Nho.
Lo hết sức người mới thấy cho.
Cho cái kiếp trần danh với lợi,
Lợi gì cho bằng Ðạo Tiên Nho.
Rán tu hạnh. Thâu.
Ngô Văn Nho: (Cẩm Giang, Tây Ninh)Tiên Nho cũng học Phật chung nền,
Nền Ðạo tu tâm chí cũng nên.
Nên đạo hạnh mình, mình cạn xét,
Xét cho tột lý Ðạo nhà nên.
Nền Ðạo tu tâm chí cũng nên.
Nên đạo hạnh mình, mình cạn xét,
Xét cho tột lý Ðạo nhà nên.
Thâu
Nhà nên cũng tại gái lòng lành,
Lành dữ khuyên ai chớ cạnh tranh.
Tranh lắm bà con đều ghét nết,
Nết na tề chỉnh ấy khôn lanh.
Lành dữ khuyên ai chớ cạnh tranh.
Tranh lắm bà con đều ghét nết,
Nết na tề chỉnh ấy khôn lanh.
Thâu. Rán tu hạnh, việc chi sẽ có Thầy.
Nguyễn Văn Tám:Khôn lanh cho biết Ðạo mà theo,
Theo đặng kịp người khỏi ngặt nghèo.
Nghèo ngặt bởi lòng không chứa đức,
Ðức là cây cội dục lòng theo.
Theo đặng kịp người khỏi ngặt nghèo.
Nghèo ngặt bởi lòng không chứa đức,
Ðức là cây cội dục lòng theo.
Thâu
Ðặng Văn Nẵm:Lòng theo mây gió ngậm ngùi thay,
Thay đổi cuộc kia có mấy ngày.
Ngày lại tháng qua đời chóng chạy,
Chạy quanh chưa mệt đã qua ngày.
Thay đổi cuộc kia có mấy ngày.
Ngày lại tháng qua đời chóng chạy,
Chạy quanh chưa mệt đã qua ngày.
Thâu
Huỳnh Thị Bài:Qua ngày đã thấy giấc chiêm bao,
Bao nhiêu tình cảnh luống thêm sầu.
Sầu dã dượi lòng ta tuổi lớn,
Lớn nhỏ khuyên lo Ðạo khá cầu.
Bao nhiêu tình cảnh luống thêm sầu.
Sầu dã dượi lòng ta tuổi lớn,
Lớn nhỏ khuyên lo Ðạo khá cầu.
Thâu
Lê Thị Chánh: (Phú An Hòa, Mỹ Tho)Khá cầu mà học Ðạo cao xa,
Xa chốn tục phàm khá bước qua.
Qua khỏi đem người lên Nữ phái,
Phái chi cho có ít người cao.
Xa chốn tục phàm khá bước qua.
Qua khỏi đem người lên Nữ phái,
Phái chi cho có ít người cao.
Thâu: Cẩm Giang.
Cũng thâu: Long Thành, Hòa Ninh.
Cũng thâu: Long Thành, Hòa Ninh.
Thầy ban ơn cho các con.
----------------Ngày 27-11-1926 (âl. 23-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy "Trước cầu cơ phải đọc Thánh ngôn cho Thiện Nam, Tín Nữ nghe...".
Samedi 27 Novembre 1926 (23-10-Bính Dần)NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Môn Ðệ, hỉ Chư Nhu, Chư Tín Nữ,
Thầy dặn một lần nầy, từ đây tuân y theo vậy.
Trước cầu cơ phải đọc Thánh ngôn cho Thiện Nam, Tín Nữ nghe, chúng nó mới biết Ðạo Thầy là Ðạo gì. Nếu các con không cho biết trước thì Thiện Nam, Tín Nữ thất lễ đã đành, chớ chúng nó biết Thầy là ai mà kiêng nễ.... nghe à.
Phải chỉnh Ðàn lại cho nghiêm, cái biến hôm Rằm các con chưa sợ sao, còn thất lễ nữa?
Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Thầy tức cười cho các con, đọc Thánh ngôn cũng là biếng nhác. Lời tiên tri Thầy, trong sự biến quỉ lộng là cần ích cho chúng sanh nghe, mà các con lại chẳng đọc... đọc lại.
---ooo---Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Thầy hỏi các con, bài nào trúng?
Thơ, Ðạo Quang! Một lát nữa cầu Thái Bạch, cho nó nói chuyện với hai con nghe à....
Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ, kẻ cầu việc chi khác để sau nghe.
Võ Văn Phẩm: Nên hư chịu lắm rủi cùng may,
Thời vận đã nên khiến đến nài.
Thầy dạy một điều lo tích đức,
Ðức kia đầy đủ mới sanh tài.
Thời vận đã nên khiến đến nài.
Thầy dạy một điều lo tích đức,
Ðức kia đầy đủ mới sanh tài.
Thâu
Lâm Văn Lịch:Sanh tài thì nghiệp cũng gầy nên,
Toan tính ra sao kế vững bền.
Trăm tuổi chưa ai quen nết Thánh,
Biết toan đem dưới thuận cùng trên.
Toan tính ra sao kế vững bền.
Trăm tuổi chưa ai quen nết Thánh,
Biết toan đem dưới thuận cùng trên.
Thâu
Ngưng:Cùng trên với dưới giữ khiêm cung,
Kẻ nghịch con toan kế phục tùng.
Rộng đức tánh quyền hành ắt rộng,
Ðừng quen thói tục mượn oai hùm.
Kẻ nghịch con toan kế phục tùng.
Rộng đức tánh quyền hành ắt rộng,
Ðừng quen thói tục mượn oai hùm.
Thâu
Lê Trí Huệ:Oai hùm ai ví Hạng Vương xưa,
Hớn đảnh gầy nên thế đón ngừa.
Thời đạt đầu xanh dầu chẳng toại,
Bảy mươi Lữ Vọng chẳng chờ trưa.
Hớn đảnh gầy nên thế đón ngừa.
Thời đạt đầu xanh dầu chẳng toại,
Bảy mươi Lữ Vọng chẳng chờ trưa.
Thâu
Trần Văn Chiếu:Chờ trưa e nỗi bóng Trời nghiêng,
Lỡ bước e đưa chẳng gặp thuyền.
Thành chẳng chừng năm ba phút chót,
Ðợi mau qua chóng lỡ làng duyên.
Lỡ bước e đưa chẳng gặp thuyền.
Thành chẳng chừng năm ba phút chót,
Ðợi mau qua chóng lỡ làng duyên.
Thâu
Trần Văn Lý:Lỡ làng duyên phận chớ buồn rầu,
Phải có cực nên mới tước cao.
Nương dưới bá tòng chờ tuyết mãn,
Non già đầu phải nhúng qua đầu.
Phải có cực nên mới tước cao.
Nương dưới bá tòng chờ tuyết mãn,
Non già đầu phải nhúng qua đầu.
Thâu
Cao Văn Phu:Ðầu xanh chí khí lập danh cao,
Phải ở sao ra mặt khí hào.
Dựng đứng cột đồng ai đã xướng,
Ðảnh Nam sừng sựng vững bền trào.
Phải ở sao ra mặt khí hào.
Dựng đứng cột đồng ai đã xướng,
Ðảnh Nam sừng sựng vững bền trào.
Thâu
Mai Văn Thành: Con kiếm phương thế nào cho thuận theo nghề nghiệp con, thì Thầy giúp đỡ cho con lập thành sự nghiệp nghe à.
Còn Mắc thì Thầy sẽ sai Vinh lại hốt thuốc cho nó.
Trung, con nhớ nói với em rằng Thầy cấm nó uống rượu nghe. Nó cảm nặng là vì rượu đó nghe.
Chiu Ngùy:Triều thiên nhứt lộ định phong quang,
Bát nhã trần ai khả quí nhàn.
Thiện tánh tu tâm căn hữu thiện,
Thiên niên gia sự đắc bình an.
Bát nhã trần ai khả quí nhàn.
Thiện tánh tu tâm căn hữu thiện,
Thiên niên gia sự đắc bình an.
Thâu
Nguyễn Văn Chánh:Bình an nhà nội mới an thân,
Hữu phước từ gia đã định phần.
Hết buổi truân chuyên nên buổi sướng,
Ðài mây có lúc cũng đưa chân.
Hữu phước từ gia đã định phần.
Hết buổi truân chuyên nên buổi sướng,
Ðài mây có lúc cũng đưa chân.
Thâu
Phạm Trung Tín:Ðưa chân đến cửa Khổng Trình xưa,
Nét hạnh muốn nên phải gắng ngừa.
Lời nói kẻ khùng cùng đứa ngộ,
Rằng sao trời nắng khó kêu mưa.
Nét hạnh muốn nên phải gắng ngừa.
Lời nói kẻ khùng cùng đứa ngộ,
Rằng sao trời nắng khó kêu mưa.
Thâu
Nguyễn Văn Tự:Kêu mưa Thầy buộc rưới mưa vào,
Ngặt hạnh chưa nên biết tính sao.
Rõ nỗi nhà thung gìn đức cả,
Nên toan tiếp trẻ khỏi ba đào.
Ngặt hạnh chưa nên biết tính sao.
Rõ nỗi nhà thung gìn đức cả,
Nên toan tiếp trẻ khỏi ba đào.
Cư, chấp bút nhang đặng Thầy giải tà cho nó.
Trung, con viết thơ cho Ba Thảo - Mỹ Tho đặng nó lên hốt thuốc cho Tự nghe à.
Tắc! con cũng vì con cầu khẩn nghe.
Hồ Văn Nhứt:Ba đào tuổi trẻ nhẫn linh đinh,
Con khá gìn ân kẻ giúp mình.
Rán sức đua chen trong thế sự,
Song thường sợ sệt phép Trời linh.
Con khá gìn ân kẻ giúp mình.
Rán sức đua chen trong thế sự,
Song thường sợ sệt phép Trời linh.
Thâu
Nguyễn Văn Dệt:Trời linh mới có thưởng người lành,
Nếu chẳng thế gian cứ cạnh tranh.
Hột thóc chưa ai khoe biến sẵn,
Của kia xin nhớ phép Trời dành.
Nếu chẳng thế gian cứ cạnh tranh.
Hột thóc chưa ai khoe biến sẵn,
Của kia xin nhớ phép Trời dành.
Thâu
Trương Văn Hòa:Trời dành đến chết chẳng ai tranh,
Tưởng trọn mình thôi nghĩ quá thành.
Hiệp chữ đoàn anh lo giúp thế,
Thì con mới đặng buổi nên mình.
Tưởng trọn mình thôi nghĩ quá thành.
Hiệp chữ đoàn anh lo giúp thế,
Thì con mới đặng buổi nên mình.
Thâu
Nguyễn Văn Ngọc:Nên mình đừng ghét nỗi nên người,
Phải phải phân phân khá thức thời.
Một miếng mồi ngon câu cá lớn,
Mình nên con khá giúp nên người.
Phải phải phân phân khá thức thời.
Một miếng mồi ngon câu cá lớn,
Mình nên con khá giúp nên người.
Thâu
Nguyễn Công Ân:Nên người khá vẹn nợ quân thần,
Nghèo khó tuy vân đã phải phần.
Trung hậu thế thường đời ít có,
Ham chi kết bạc gọi là lân.
Nghèo khó tuy vân đã phải phần.
Trung hậu thế thường đời ít có,
Ham chi kết bạc gọi là lân.
Thâu
Ðỗ Văn Nghị:Lân ra ắt có Thánh quân ra,
Nhiều gốm vòng Nam hiệp một nhà.
Phải nhớ sang hèn con cái Lão,
Ðừng quen chê nhạo chánh cùng tà.
Nhiều gốm vòng Nam hiệp một nhà.
Phải nhớ sang hèn con cái Lão,
Ðừng quen chê nhạo chánh cùng tà.
Thâu
Nguyễn Ngọc Lẳm:Chánh tà có thế dễ chi phân,
Hễ có quân vương ắt có thần.
Mượn vẻ cân đai kìa mấy mặt,
Ðua tài cậy sức để an dân.
Hễ có quân vương ắt có thần.
Mượn vẻ cân đai kìa mấy mặt,
Ðua tài cậy sức để an dân.
Thâu
Nguyễn Văn Nhâm:An dân ắt cũng đặng lòng Trời,
Phàm thế chưa người đó hỡi ngươi.
Thà núp thú quê nghề phó nghị,
Thà theo Hạng Võ đỡ nâng ngôi.
Phàm thế chưa người đó hỡi ngươi.
Thà núp thú quê nghề phó nghị,
Thà theo Hạng Võ đỡ nâng ngôi.
Thâu
Nguyễn Hữu Ðại:Ngôi hiền khó đoạt ví ngôi vua,
Nhà của ông Ngô quá nóc chùa.
Mình biết trọng mình Thần, Thánh trọng,
Ai xua ai đuổi đức ăn đùa.
Nhà của ông Ngô quá nóc chùa.
Mình biết trọng mình Thần, Thánh trọng,
Ai xua ai đuổi đức ăn đùa.
Thâu
Nguyễn Thành Hoa:Ăn đùa rẻ bán Lữ Vi vinh,
Một xảo trước kia sử giữ gìn.
Thà đọc sách xưa hiền bảy Lão,
Tại nơi rừng trước hưởng khương bình.
Một xảo trước kia sử giữ gìn.
Thà đọc sách xưa hiền bảy Lão,
Tại nơi rừng trước hưởng khương bình.
Thâu
Lê Minh Tuấn:Khương bình mình một chẳng chi hay,
Phải kiếm trăm năm kẻ nhắc tài.
An nước an dân toan bủa đức,
Sửa cơn nắng tối lại mưa mai.
Phải kiếm trăm năm kẻ nhắc tài.
An nước an dân toan bủa đức,
Sửa cơn nắng tối lại mưa mai.
Thâu
Lê Tâm Hảo:Mưa mai nắng tối biết bao lần,
Lựa lọc chưa rồi nẻo các lân.
Tính lại mấy thu man mác phận,
Còn chi mong mỏi nghiệp hồng trần.
Lựa lọc chưa rồi nẻo các lân.
Tính lại mấy thu man mác phận,
Còn chi mong mỏi nghiệp hồng trần.
Thâu
Lê Văn Hội:Hồng trần là biển khổ con ôi,
Cực nhọc đời kia quá ngán đời.
Những nỗi lợi xin cùng lộc mượn,
Hôm trông có vận buổi trông thời.
Cực nhọc đời kia quá ngán đời.
Những nỗi lợi xin cùng lộc mượn,
Hôm trông có vận buổi trông thời.
Thâu
Trần Văn Tài:Trông thời Nghiêu Thuấn dễ chi trông,
Nên mặc ai chưa biết gã Tòng.
Chận kế đốt thơ khêu Mạnh Ðức,
Nghiêng mình ai ví gã Châu Công.
Nên mặc ai chưa biết gã Tòng.
Chận kế đốt thơ khêu Mạnh Ðức,
Nghiêng mình ai ví gã Châu Công.
Thâu
Trương Văn Giáo:Châu Công đưa nghiệp nối Nho phong,
Thánh đức còn nêu trí hoán phòng.
Thạnh nước câu văn hơn tiếng sấm,
Không trung đố kẻ thấy chim Hồng.
Thánh đức còn nêu trí hoán phòng.
Thạnh nước câu văn hơn tiếng sấm,
Không trung đố kẻ thấy chim Hồng.
Thâu
Trương Văn Keo:Chim Hồng thuận gió mới xa bay,
Thánh đức mới hay Ðạo nhiệm bày.
Thương kẻ nhơn sanh hơn xác thịt,
Chẳng lo cầu cạnh cũng ngồi ngai.
Thánh đức mới hay Ðạo nhiệm bày.
Thương kẻ nhơn sanh hơn xác thịt,
Chẳng lo cầu cạnh cũng ngồi ngai.
Thâu
Lê Minh Thức:Ngồi ngai biết phận ấy ngồi chông,
Giữa tuyết lạnh đông buộc tưởng nồng.
Xác thịt Thầy vì không giáng thế,
Nên nhờ con giúp Ðạo nâng bồng.
Giữa tuyết lạnh đông buộc tưởng nồng.
Xác thịt Thầy vì không giáng thế,
Nên nhờ con giúp Ðạo nâng bồng.
Thâu
Lê Văn Nơi:Nâng bồng qua khỏi chốn mê tân,
Mượn chiếc thuyền Tiên lánh tục trần.
Lời lẽ tuy Thầy chưa để dặn,
Nhưng tên tuổi trẻ ở Ðài Vân.
Mượn chiếc thuyền Tiên lánh tục trần.
Lời lẽ tuy Thầy chưa để dặn,
Nhưng tên tuổi trẻ ở Ðài Vân.
Thâu
Lê Văn Mẹo:Ðài Vân quan võ để Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.
Thâu
Ðặng Văn Có:Phần Tiên Phật khó hiệp phần đời,
Phải biết diệt trần mới đến nơi.
Tiên cảnh nét đường không rước tục,
Thành không con dại cứ nghe lời.
Phải biết diệt trần mới đến nơi.
Tiên cảnh nét đường không rước tục,
Thành không con dại cứ nghe lời.
Thâu
Lê Văn Ða:Vâng lời Thánh ắt đặng siêu phàm,
Trần thế là chi để dạ tham.
Mua đức khá tua gieo cửa tục,
Chừng mô đức vẹn mới siêu phàm.
Trần thế là chi để dạ tham.
Mua đức khá tua gieo cửa tục,
Chừng mô đức vẹn mới siêu phàm.
Thâu
Nguyễn Thị Kinh:Siêu phàm nết gái để hơn trai,
Mượn nước nhành dương rửa cảnh đài.
Nắm phép Âm Dương đưa bóng lệ,
Thạnh cân bào huyễn đắc Thiên nhai.
Mượn nước nhành dương rửa cảnh đài.
Nắm phép Âm Dương đưa bóng lệ,
Thạnh cân bào huyễn đắc Thiên nhai.
Thâu
Võ Thị Giác:Thiên nhai nào phải tại trần nầy,
Chẳng phải giữa trời chẳng khỏi mây.
Ðưa phép sanh tồn khuyên trẻ ngó,
Theo chơn dõi bước níu sau Thầy.
Chẳng phải giữa trời chẳng khỏi mây.
Ðưa phép sanh tồn khuyên trẻ ngó,
Theo chơn dõi bước níu sau Thầy.
Thâu
Nguyễn Thị Ðược:Sau Thầy hứa chắc đỡ nâng con,
Thiên Ấn Thái Sơn cũng chẳng mòn.
Thành kính khá tua lo đạo đức,
Thêm công phái nữ lập vuông tròn.
Thiên Ấn Thái Sơn cũng chẳng mòn.
Thành kính khá tua lo đạo đức,
Thêm công phái nữ lập vuông tròn.
Thâu
Thị Duyên:Vuông tròn đạo hạnh gái toan lo,
Học giỏi thì chi cũng bởi trò.
Nói ít biết nhiều là trò giỏi,
Hay làm chẳng nạnh ấy là lo.
Học giỏi thì chi cũng bởi trò.
Nói ít biết nhiều là trò giỏi,
Hay làm chẳng nạnh ấy là lo.
Thâu
Trần Thị Ni:Lo cho con để đức hơn vàng,
May rủi cũng trừ đứa ngỗ ngang.
Trăm kiếp yên nhà vì Ðạo mến,
Thường đem chén ngọc đựng ngao vàng.
May rủi cũng trừ đứa ngỗ ngang.
Trăm kiếp yên nhà vì Ðạo mến,
Thường đem chén ngọc đựng ngao vàng.
Thâu
Võ Thị Hiển:Ngao vàng chứa sẵn nước Cam Lồ,
Thánh đức nhớ nguyền cái sắc cô.
Vải trọc hơn trang Hoàng Hậu thế,
Cửa chùa yên tịnh chẳng như đô.
Thánh đức nhớ nguyền cái sắc cô.
Vải trọc hơn trang Hoàng Hậu thế,
Cửa chùa yên tịnh chẳng như đô.
Thâu
Trần Thị Tròn:Như đô dời đổi nghiệp vua truyền,
Mình một phong quang mặc ngửa nghiêng. (quan?)
Ðóng cửa tụng kinh xem thế cuộc,
Bên lưng con chớ tưởng mang tiền.
Mình một phong quang mặc ngửa nghiêng. (quan?)
Ðóng cửa tụng kinh xem thế cuộc,
Bên lưng con chớ tưởng mang tiền.
Thâu
Phạm Thị Thành:Mang tiền cỡi hạc đến Dương Châu,
Chiếp miệng còn than nỗi buổi đầu.
Thiên định lẽ kia ai cũng chịu,
Hỏi người hỗ mặt giữa vườn dâu.
Chiếp miệng còn than nỗi buổi đầu.
Thiên định lẽ kia ai cũng chịu,
Hỏi người hỗ mặt giữa vườn dâu.
Thâu
Hồ Thị Diệp:Vườn dâu đừng để thẹn thân mai,
Nét Ðạo khuyên con gắng chí mài.
Sửa tánh cũng như toan vá áo,
Gìn tâm như tối cửa then gài.
Nét Ðạo khuyên con gắng chí mài.
Sửa tánh cũng như toan vá áo,
Gìn tâm như tối cửa then gài.
Thâu
Thơ, con làm Thánh Tượng vậy đặng; con phải tính thế in cho nhiều một lần thì giá rẻ chút ít nghe.
Ðặng con, Thầy biết một điều là trong hàng em út con đều là phần nghèo; một đồng nó đỡ một đồng nghe con.
Thầy ban ơn cho các con.
Phải Trung, phải Thầy.
Thái dương tiếp khí quản thiên minh,
Bạch tượng nhiên trung tửu khách tình.
Kim Khuyết đại tranh tông phái hội,
Tinh khôi cộng khởi lập điều đình.
Trần Văn Sô:Bạch tượng nhiên trung tửu khách tình.
Kim Khuyết đại tranh tông phái hội,
Tinh khôi cộng khởi lập điều đình.
Ðoan chánh khá khen nết chẳng thường,
Người thương Thầy cũng để lòng thương.
Nam kia ví bẵng nhiều hàng mặc,
Ðạo đức chưa ai lạc nẻo đường.
Người thương Thầy cũng để lòng thương.
Nam kia ví bẵng nhiều hàng mặc,
Ðạo đức chưa ai lạc nẻo đường.
Thâu
Bùi Văn Y:Nẻo đường Tây Vức khó đưa chơn,
Phật trước Tiên xưa luống ngậm hờn.
Thanh tịnh ít người toan định tỉnh,
Công danh ràng rực cột chôn chơn.
Phật trước Tiên xưa luống ngậm hờn.
Thanh tịnh ít người toan định tỉnh,
Công danh ràng rực cột chôn chơn.
Thâu
Lê Văn Ðặng:Chôn chơn vừa vặn cũng chôn hồn,
Chuông gióng u hồn nhẫn nhắc khôn.
Ví biết trần gian là biển khổ,
Ðạo mầu khá giữ lại cô thôn.
Chuông gióng u hồn nhẫn nhắc khôn.
Ví biết trần gian là biển khổ,
Ðạo mầu khá giữ lại cô thôn.
Thâu
Lê Văn Cứng:Cô thôn nhắm hướng ngóng trời Tây,
Mới biết đời nay mới thiệt ngày.
Tiên Phật ở chung cùng thế sự,
Chẳng đi mà thấy cảnh Bồng Lai.
Mới biết đời nay mới thiệt ngày.
Tiên Phật ở chung cùng thế sự,
Chẳng đi mà thấy cảnh Bồng Lai.
Thâu
Lê Văn Tỏi:Bồng Lai chưa dễ để chơn phàm,
Của đống vàng kho chuộc chẳng kham.
Tùy tánh tùy tâm lo đức nghiệp,
Ðò xưa đưa rước đậu vào vàm.
Của đống vàng kho chuộc chẳng kham.
Tùy tánh tùy tâm lo đức nghiệp,
Ðò xưa đưa rước đậu vào vàm.
Thâu
Lê Văn Thiện:Vào vàm thế sự lắm gay go,
Nửa kiếp hằng lo mỏi sức trò.
Nghiệp cũ nhà xưa còn dấu bỏ,
Trông chi lừng lẫy tính nghề to.
Nửa kiếp hằng lo mỏi sức trò.
Nghiệp cũ nhà xưa còn dấu bỏ,
Trông chi lừng lẫy tính nghề to.
Thâu
Phan Văn Tỏ:Nghề to thì lại có lo nhiều,
Thà đặng buổi nào tính bấy nhiêu.
Gỗ nhỏ thành nhiều con khá gắng,
Khéo ăn khéo ở đặng nên chìu.
Thà đặng buổi nào tính bấy nhiêu.
Gỗ nhỏ thành nhiều con khá gắng,
Khéo ăn khéo ở đặng nên chìu.
Thâu
Phạm Văn Yên:Nên chìu mặt thế mới nên danh,
Ðừng để tà tâm đến dỗ dành.
Phải nghĩa phải nhơn là phải Ðạo,
Thà hư cho sạch rách cho thanh.
Ðừng để tà tâm đến dỗ dành.
Phải nghĩa phải nhơn là phải Ðạo,
Thà hư cho sạch rách cho thanh.
Thâu
Phạm Trung Dung:Cho thanh tâm mạng mới vững vàng,
Ðến ngó Phật Trời khỏi thắp nhang.
Khuất mắt phàm dễ ai ngó đặng,
Thầy đây đã hãn dạ cao sang.
Ðến ngó Phật Trời khỏi thắp nhang.
Khuất mắt phàm dễ ai ngó đặng,
Thầy đây đã hãn dạ cao sang.
Thâu
Nguyễn Văn Nho:Cao sang chẳng mượn của thường tình,
Bao phủ mình con chút khí linh.
Chánh trực Thần Tiên còn nể mặt,
Huống hồ trần cấu động vào mình.
Bao phủ mình con chút khí linh.
Chánh trực Thần Tiên còn nể mặt,
Huống hồ trần cấu động vào mình.
Thâu
Nguyễn Văn Chính:Vào mình Thánh tước há nên mừng,
Thành đặng đôi đường phải đựng cân.
Thấy kẻ đặng vàng mình kiếm đá,
Ðua tranh chưa đủ sức ân cần.
Thành đặng đôi đường phải đựng cân.
Thấy kẻ đặng vàng mình kiếm đá,
Ðua tranh chưa đủ sức ân cần.
Thâu
Nguyễn Văn Sự:Ân cần lo lắng đắp nền nhơn,
Phước trước thừa sau có chút hườn.
Phân định lẽ Trời ra phép nhặt,
Ðức thì phước, ác họa tai phân.
Phước trước thừa sau có chút hườn.
Phân định lẽ Trời ra phép nhặt,
Ðức thì phước, ác họa tai phân.
Thâu
Phan Văn Võ:Tai phân nạn trả lẽ thường thường,
Chớ tưởng mắt Trời ngó thiếu phương.
Non Thái dầu cao, cao hóa thấp,
Chậu kia dầu kín thấy thông thương.
Chớ tưởng mắt Trời ngó thiếu phương.
Non Thái dầu cao, cao hóa thấp,
Chậu kia dầu kín thấy thông thương.
Thâu
Hồ Văn Cho:Thông thương ngó rõ tánh lòng người,
Con chớ tưởng lầm tiếng nói chơi.
Vè thử Thầy cho con đặng phép,
Làm sao cho khuất bóng Thần ngươi.
Con chớ tưởng lầm tiếng nói chơi.
Vè thử Thầy cho con đặng phép,
Làm sao cho khuất bóng Thần ngươi.
Thâu
Dương Văn Cử:Cũng lúc láo tới lạo xạo,
Ðạo biết gì ham muốn mão.
Ðạo biết gì ham muốn mão.
Thâu cho làm đồng nhi, rán học giỏi sau Thầy cho đội con nghe.
Tr. Văn Giáo:Thần ngươi xem khắp cả Càn Khôn,
Coi khắp nhơn sanh với giữ hồn.
Nếu trẻ biết quyền cầu khẩn thử,
Sang năm đổi số lạnh ra ôn.
Coi khắp nhơn sanh với giữ hồn.
Nếu trẻ biết quyền cầu khẩn thử,
Sang năm đổi số lạnh ra ôn.
Thâu
Ngô Văn Liêng:Ôn hòa cứ mực xử cùng đời,
Nương bóng Cao Ðài đủ khắp nơi.
Nên mặt trò kia Thầy có giá,
Chưa khoe dạn nắng chiếu không phơi.
Nương bóng Cao Ðài đủ khắp nơi.
Nên mặt trò kia Thầy có giá,
Chưa khoe dạn nắng chiếu không phơi.
Thâu
Trần Văn Xường:Phơi gan xử thế nết anh hùng,
Xấu mặt mà lòng thiệt rất trung.
Thầy để một lời khuyên trẻ nhớ,
Không duyên thôi chịu mạng nghèo cùng.
Xấu mặt mà lòng thiệt rất trung.
Thầy để một lời khuyên trẻ nhớ,
Không duyên thôi chịu mạng nghèo cùng.
Thầy dạy con phải nghe, dầu con ham mến sự đời lại càng khổ cực.
Thầy cho con chức Lễ Sanh ở tại Thánh Thất tu hành nghe à.
Nguyễn Văn Nhãn:Nghèo cùng mà chẳng bợn của ai,
Thân cũng yên thân, tánh chẳng nài.
Một mặt trung lương ai cũng rõ,
Nông trang ngày cũng rõ anh tài.
Thân cũng yên thân, tánh chẳng nài.
Một mặt trung lương ai cũng rõ,
Nông trang ngày cũng rõ anh tài.
Thâu
Phan Văn Lực:Anh tài chưa biết dựa quyền người,
Còn nói chi chi bổn phận ngươi.
Tranh đấu cuộc đời là huyết chiến,
Nhứt nhân chịu khổ, chịu người cười.
Còn nói chi chi bổn phận ngươi.
Tranh đấu cuộc đời là huyết chiến,
Nhứt nhân chịu khổ, chịu người cười.
Thâu
Trung, con biểu buồn ngủ há?
Mai Văn Xinh: Thôi thì thâu.
Mai Bá Hi: Thây nó con Cư, cười.... Con biết chúng nó là chi của Thầy. Ðừng hiếp đáp, để mặc Thầy dạy dỗ. Thâu.
Nguyễn Văn Lượng: Thâu nữa.
Nguyễn Văn Hạp: Cũng thâu.
Lê Văn Tao: Thâu.
Nguyễn Văn Tỏ: Thâu.
Mắc, Thầy dặn con cứ nghe lời Thầy. Con nghe: Thầy giúp con làm công quả đặng chuộc tội cho cha con và cứu Cửu Huyền Thất Tổ con, song tùy theo con chứ Thầy cũng phải giữ lẽ công. Chừng nào con làm đủ âm chất, Thầy sẽ cho cha con nhập cơ mà hội diện với con nghe à.... Cười.
Còn sắc phục con phải mặc nịt một sợi dây lưng ba màu: vàng, xanh, đỏ; có chữ ngay giữa: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và một cây trương, trên có lá cờ cũng đề như vậy.
Bộ y phục như của Tạ, nghe à ....
Sanh, con đừng lo lắng quá nghe.
Thầy muốn gìn giữ lại đôi lát, chờ ngày nào Thầy định sẽ hay. Con nói lại với vợ con nghe, Thầy sẽ nói với nó, vì của ấy còn cao giá nữa hiểu à?
Trần Văn Hên: Thâu, Thầy cho con ở chùa tu hành, cũng đặng chức Lễ Sanh vậy.
Mỗi Nữ phái đều thâu con. Cư xem mau mau xuống giải tà cho một người phụ nữ nghe. Ngày mai Thầy sẽ cho Nữ phái thi.
----------------------Ngày 02-12-1926 (âl. 28-10-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy "... sắp đặt trang nghiêm trong Thánh Thất...".
Jeudi 02 Decembre 1926 (28-10-Bính Dần)THÁI BẠCH
Thiên Phong bình thân, Bần Ðạo chào chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội.
Thầy sai Bần Ðạo đến sắp đặt trang nghiêm trong Thánh Thất.
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu từ đây cấm không cho Vĩnh nhập Ðàn.
Thanh Hương, từ đây Hiền Muội cấm không cho... nhập Ðàn nghe.
Bần Ðạo phân phép từ ngày nay hễ nhập Thánh Thất thì phải giữ phép Nam Nữ bất thân: Nam ở Ðông hiên, Nữ ở Tây hiên.
Hai bên không đặng lân cận nhau. Nam theo nam, nữ theo nữ, cấm cười cợt trửng giỡn với nhau, trừ ra vợ chồng hay là chị em ruột, anh em ruột đặng chuyện vãn với nhau nơi Tịnh Ðàn. Còn kỳ dư như hai đàng muốn chuyện vãn nhau phải có hai người chứng: một bên nam, một bên nữ.
Phòng trù dù phải chung lộn nhau buổi nấu nướng, khi dọn ăn chẳng đặng lộn xộn cùng nhau nghe à.
Thơ Thanh, Hiền Hữu phải viết luật cấm nầy dán nơi Thánh Thất nghe à.
Quới, ngươi ở đây lo công quả chớ chẳng phải có mặt lấy vị nghe không, liệu lấy. Phải chỉnh Ðàn cho Thầy giáng.
-----------------Ngày 03-12-1926 (âl. 29-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ.
Ngày 29-10-Bính Dần (03-12-1926)NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, hỉ chư Nhu, hỉ chư Ái Nữ, hỉ chư Tín Nữ,
Hầu Ðàn: Thầy cho chư Nhu cầu Ðạo, thượng sớ.
Minh Lý: Thầy cho các con sắm lễ đi, cho khỏi phụ tình em út các con.
Ðại phục: Cười .... Bỏ Thánh Thất há?
Thái Bạch giận đa con, sai người khác đi như Hóa Thầy cho phép.
Hợi, con ôi nó còn chưa biết tu là chi hết.
Con cứ đi ??? Cười.... Chẳng hữu ích nhiều mà con thức tỉnh nó lần lần coi.
Lê Văn Ðâu:Ðâu bằng cảnh tịnh cõi Bồng Lai,
Thế thượng không ai biết giá nài.
Giá một cuộc trần nhiều kẻ chuộng,
Nay con nên nghiệp khỏi ai nài.
Thế thượng không ai biết giá nài.
Giá một cuộc trần nhiều kẻ chuộng,
Nay con nên nghiệp khỏi ai nài.
Thâu
Nguyễn Văn Xiên:Xiên lòng ngoài mặt cũng là ngay,
Biết phép phân thân gẫm quá tài.
Ðưa rước như đò đông buổi chợ,
Nửa phần liệu túi, nửa đưa tay.
Biết phép phân thân gẫm quá tài.
Ðưa rước như đò đông buổi chợ,
Nửa phần liệu túi, nửa đưa tay.
Về lo ăn năn tội trước nghe.
Nguyễn Văn Nhiều:Nhiều cơn sóng dập gió thêm dồi,
Cái kiếp gì xem bạc quá vôi.
Thầy dặn biết tu Thầy cải số,
Nghèo hèn có thuở dựa cao ngôi.
Cái kiếp gì xem bạc quá vôi.
Thầy dặn biết tu Thầy cải số,
Nghèo hèn có thuở dựa cao ngôi.
Thâu
Nguyễn Văn Ký:Ký thành một cuốn gọi Thiên Thơ,
Khai Ðạo muôn năm trước định giờ.
May phước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.
Khai Ðạo muôn năm trước định giờ.
May phước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.
Thâu
Nguyễn Văn Lục:Lục thông trần thế chẳng ai hay,
Cái máy Thiên Cơ đã sắp bày.
Thầy đến nói thời con định quả,
Ðừng chờ rốt cuộc hẹn không ngày.
Cái máy Thiên Cơ đã sắp bày.
Thầy đến nói thời con định quả,
Ðừng chờ rốt cuộc hẹn không ngày.
Thâu
Nguyễn Văn Nhì:Nhì thân ai biết có bên mình,
Một cái là phàm, một cái linh.
Vắng dạng nhưng trong đầu chẳng có,
Mảnh thân phàm tục vốn bù nhìn.
Một cái là phàm, một cái linh.
Vắng dạng nhưng trong đầu chẳng có,
Mảnh thân phàm tục vốn bù nhìn.
Thâu
Nguyễn Văn Chánh:Chánh tà hai lẽ thế mờ hồ,
Giả thử thấy chuông ướm nói ô.
Thiên Ðịa cảnh Trời xây trước mắt,
Thấy cơ định vật ấy là đồ.
Giả thử thấy chuông ướm nói ô.
Thiên Ðịa cảnh Trời xây trước mắt,
Thấy cơ định vật ấy là đồ.
Thâu
Lê Văn Tăng:Tăng thôi một kiếp cũng là duyên,
Chẳng định trước kia ước chẳng tuyền.
Mộng điệp còn ngày công quả rỗi,
Hồn linh dường tưởng tượng Huỳnh Tuyền.
Chẳng định trước kia ước chẳng tuyền.
Mộng điệp còn ngày công quả rỗi,
Hồn linh dường tưởng tượng Huỳnh Tuyền.
Thâu
Nguyễn Văn Thượng: (Thường?)Thường xem khí số biết Thiên Cơ,
Hết kiếp trần ai cõi ở nhờ.
Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm,
Những là Bá Tước gánh đồ thơ.
Hết kiếp trần ai cõi ở nhờ.
Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm,
Những là Bá Tước gánh đồ thơ.
Thâu
Trang Văn Lục:Lục chu may trộn giống màu thanh,
Bô vải mà che một tấc thành.
Nam khí hưng suy dân khí phát,
Nên trang anh tuấn mặt tài danh.
Bô vải mà che một tấc thành.
Nam khí hưng suy dân khí phát,
Nên trang anh tuấn mặt tài danh.
Thâu
Nguyễn Văn Tuất: (Tuấn?)Tuấn tú thay một mối cơ đồ,
Chẳng biết giữ gìn xúm lại xô.
Anh chẳng nên anh em bất nghĩa,
Mừng xưa nay ví giấc tương hồ.
Chẳng biết giữ gìn xúm lại xô.
Anh chẳng nên anh em bất nghĩa,
Mừng xưa nay ví giấc tương hồ.
Thâu
Bùi Văn Ðứa:Ðứa nên ai lại nỡ làm hư,
Con cũng có công đức đến chừ.
Thầy phải đếm dư vì vắng mặt,
Phong làm Giáo Hữu trả ơn trừ.
Con cũng có công đức đến chừ.
Thầy phải đếm dư vì vắng mặt,
Phong làm Giáo Hữu trả ơn trừ.
Thâu
Nguyễn Văn Tửng:Tửng chơi cho hiệp ý con cầu,
Thầy dạy con về đến Suối Sâu.
Gặp mặt hai chàng đi hỏi Ðạo,
Thì con dắt nó đến đây cầu.
Thầy dạy con về đến Suối Sâu.
Gặp mặt hai chàng đi hỏi Ðạo,
Thì con dắt nó đến đây cầu.
Thâu. Giỏi Thầy sẽ thưởng công.
Lê Văn Hành:Hành thuyền kỵ mã miệng đời chê,
Thầy tưởng thân con tỉ Thúc Tề.
Giữ nghĩa hay quên lo nỗi hiếu,
Nương đường đạo đức khó trăm bề.
Thầy tưởng thân con tỉ Thúc Tề.
Giữ nghĩa hay quên lo nỗi hiếu,
Nương đường đạo đức khó trăm bề.
Thâu. Về lo luyện tánh lại nghe.
Nguyễn Văn Phú:Phú cho Tạo Hóa ấy là Thầy,
Muôn thảm ngàn cay đến bỏ đây.
Thầy vốn như người khiêng gánh mướn,
Ðau đau thảm thảm chở cho đầy.
Muôn thảm ngàn cay đến bỏ đây.
Thầy vốn như người khiêng gánh mướn,
Ðau đau thảm thảm chở cho đầy.
Thâu
Nguyễn Văn Hoằng:Hoằng thân mảng những cúi lòn hoài,
Chẳng nở mặt cùng đối với ai.
Thương đời để dạ thương còn quả,
Trước muốn tiêu tai ách giữ ngay.
Chẳng nở mặt cùng đối với ai.
Thương đời để dạ thương còn quả,
Trước muốn tiêu tai ách giữ ngay.
Thâu
Nguyễn Văn Giác:Giác thế muốn trông mấy phép lành,
Khuyên đời chớ mến lợi cùng danh.
Trăm năm chưa hẳn ngoài căn số,
Ðịa vị đỉnh chung chớ giựt giành.
Khuyên đời chớ mến lợi cùng danh.
Trăm năm chưa hẳn ngoài căn số,
Ðịa vị đỉnh chung chớ giựt giành.
Thâu
Nguyễn Văn Còn:Còn đời chìm nổi lắm gay go,
Tu đặng đâu tua hỡi bớ trò.
Thôi cứ thành tâm làm phước mãi,
Không nên danh Thánh cũng đưa đò.
Tu đặng đâu tua hỡi bớ trò.
Thôi cứ thành tâm làm phước mãi,
Không nên danh Thánh cũng đưa đò.
Thâu
Huỳnh Văn Bá:Bá tước công khanh ý vị gì?
Mà đời dám đổi kiếp sầu bi.
Nương chơn chưa quyết thân còn vững,
Níu thử cân đai thấy nặng trì.
Mà đời dám đổi kiếp sầu bi.
Nương chơn chưa quyết thân còn vững,
Níu thử cân đai thấy nặng trì.
Thâu
Nguyễn Văn Cận:Cận hiền như thể dựa chi lan,
Chẳng nhiểm mùi hương cũng phẩm hàm.
Biết Ðạo dù ai toan muốn hiếp,
Lòng trong e lệ giống hầu quan.
Chẳng nhiểm mùi hương cũng phẩm hàm.
Biết Ðạo dù ai toan muốn hiếp,
Lòng trong e lệ giống hầu quan.
Thâu
Nguyễn Văn Trì:Trì tâm tu hướng đáo Tây Phương,
Bất viễn kiêm môn hữu mã đường. (kim?)
Huỳnh khuyết dĩ văn tâm khẩn nguyện,
Thành khôi đắc thế hiệp trinh tường.
Bất viễn kiêm môn hữu mã đường. (kim?)
Huỳnh khuyết dĩ văn tâm khẩn nguyện,
Thành khôi đắc thế hiệp trinh tường.
Thâu
Trương Văn Hòa:Hòa trên thì dưới mới an tâm,
Mình vốn là anh chấp lỗi lầm.
Thương vợ cũng đồng em út vậy,
Một bên cốt nhục nọ tình thâm.
Mình vốn là anh chấp lỗi lầm.
Thương vợ cũng đồng em út vậy,
Một bên cốt nhục nọ tình thâm.
Thâu.Về sửa gia đình lại tái hầu.
Bùi Thị Tài:Tài hay con bớt nết hung hăng,
Phải sửa mình hay chịu nhọc nhằn.
Có lỗi không tu nhà biến nạn,
Phương hay là phải dạ ăn năn.
Phải sửa mình hay chịu nhọc nhằn.
Có lỗi không tu nhà biến nạn,
Phương hay là phải dạ ăn năn.
Thâu
Trương Thị Bèn:Ban mai ai đẩy mặt trời lên,
Không đặng cao sang chí kém bền.
Nặng gánh thì con toan ít chở,
Chẳng khoa mà lại vọng nêu tên.
Không đặng cao sang chí kém bền.
Nặng gánh thì con toan ít chở,
Chẳng khoa mà lại vọng nêu tên.
Thâu. Con đợi lịnh Thái Bạch con.
Thầy ban ơn cho các con. Thăng.
--------------------Ngày 04-12-1926 (âl. 30-10-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Samedi 4 Décembre 1926 (30-10-Bính Dần)THÁI BẠCH KIM TINH
Chào chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Ðạo Quang, Hiền Hữu nghe:
Nơi Thánh Thất nầy chưa ai gọi mình lớn hơn ai, vậy Hiền Hữu cũng phải thủ lễ như thường nghe.
Thầy dạy Lão sắp đặt cho nghiêm khi làm lễ, những kẻ quạt xuất ngoại.
Từ đây không cho phép vậy nữa.
Kiệt, Hiền Hữu đặng thọ phong Giáo Hữu. Chỉnh Ðàn cho nghiêm đặng Thầy giáng.
---ooo---
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Cười .... Thầy xin không thôi thì Thái Bạch đã mời Như Nhãn vào đặng nhục mạ rồi. Thầy nói ít các con hiểu nhiều nghe. Trung, Trang, Tương, Thơ, Hóa, Thanh Hương, các con lo tính như Thầy đã dặn? Chẳng lẽ các con đã thấy nó khi mạng lịnh Thầy dường ấy ngồi ngó cho đành.
Hương Thanh xin lựa cất Thánh Thất nơi gò đất gần đó cho xứng đáng.
Không Ái Nữ, chi chi cũng tại đây mà thôi con.
Môn Ðệ Thiên Phong xin hồi tiền lại cho Hòa Thượng Giác Hải.
Phải vậy rồi.
Các con sẽ thấy Thầy trị chúng nó thể nào.
Lâm Thị Ái Nữ, con đừng rầu buồn lo lắng, để Thầy định liệu với mấy anh con.
Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ. Chư Môn Ðệ bình thân. Kiệt lạy Thầy tạ ơn Thiên Phong Giáo Hữu.
Kiệt, con đáng công cho Thái Bạch ban thưởng. Thầy mừng cho con.
Trịnh Thị Thị, con là Môn Ðệ Thầy rồi....
Tạo:Tạo nên sự nghiệp thế ai màng,
Chưa đến đài mây đã đặng sang.
Trau chuốt nền nhơn con gắng vó,
Thầy đây sẽ để một ngôi hàng.
Chưa đến đài mây đã đặng sang.
Trau chuốt nền nhơn con gắng vó,
Thầy đây sẽ để một ngôi hàng.
Thâu
Hứa Thị Nhiều:Nhiều phen than thở phận côi cùng,
Chẳng biết cùng ai tỏ dạ trong.
Nương bóng liễu chờ nhành bá gặp,
Thương thương chưa biết lẽ nên không.
Chẳng biết cùng ai tỏ dạ trong.
Nương bóng liễu chờ nhành bá gặp,
Thương thương chưa biết lẽ nên không.
Thâu
Xúc:Xúc lòng nhắm lại cảnh trời Nam,
Một sắc dân xưa chẳng phải phàm.
Cũng bởi Ðạo lầm nên mất nước,
Chịu nhiều khổ não lắm trân cam.
Một sắc dân xưa chẳng phải phàm.
Cũng bởi Ðạo lầm nên mất nước,
Chịu nhiều khổ não lắm trân cam.
Thâu
Nhị:Nhị Châu chẳng hiệp với Bộ Châu,
Như chỗ nghỉ ngơi với điện hầu.
Trước có duyên xưa mong mỏi đến,
Khá lo tu niệm Ðạo cao sâu.
Như chỗ nghỉ ngơi với điện hầu.
Trước có duyên xưa mong mỏi đến,
Khá lo tu niệm Ðạo cao sâu.
Thâu
Phạm Thị Thành:Thành lòng đi đến chốn điện đình,
Lòng thật Phật Trời mới thiệt linh.
Lửng đửng lờ đờ chưa quyết đoán,
Tin Trời tin Phật trước tin mình.
Lòng thật Phật Trời mới thiệt linh.
Lửng đửng lờ đờ chưa quyết đoán,
Tin Trời tin Phật trước tin mình.
Dương Văn Ngọ:
Ngọ chưa thấy bóng kế Mùi sang,
Trông đặng vinh huê hưởng chữ nhàn.
Như lúc Tử Nha đưa cán trúc,
Câu thời câu vận cá nào ăn?
Hữu:Trông đặng vinh huê hưởng chữ nhàn.
Như lúc Tử Nha đưa cán trúc,
Câu thời câu vận cá nào ăn?
Hữu ái con tua để tấc lòng,
Giúp đời công ấy vốn đầu công.
Nên người mình biết nên mình vậy,
Ðừng cách phàm tâm tánh dự phòng.
Giúp đời công ấy vốn đầu công.
Nên người mình biết nên mình vậy,
Ðừng cách phàm tâm tánh dự phòng.
Ngô:
Ngô chưa quét Thục Ngụy tranh phong,
Một dãy non sông chứa bá tòng.
Bền chí để ngươi xem bát địa,
Trời đương un đúc đấng anh hùng.
Một dãy non sông chứa bá tòng.
Bền chí để ngươi xem bát địa,
Trời đương un đúc đấng anh hùng.
Miêng:
Miêng trường có một nẻo là tu,
Thương đám nhơn sanh nhẫn viết mù.
Nếu đặng thật lòng lo cứu chúng,
Thầy đành giao đứt một Tiên chu.
Thương đám nhơn sanh nhẫn viết mù.
Nếu đặng thật lòng lo cứu chúng,
Thầy đành giao đứt một Tiên chu.
Sau trọng dụng.
Sang:Sang hèn trối mặc nhún cùng trề,
Phải biết giá mình mới biết chê.
Ðứa trẻ chưa quen quyền Lão xá,
Ðái đầu rán chịu ướt dầm dề.
Phải biết giá mình mới biết chê.
Ðứa trẻ chưa quen quyền Lão xá,
Ðái đầu rán chịu ướt dầm dề.
Cười ... Thâu.
Tho:Tho thơm chi cũng vốn mùi đời,
Chưa kẻ dùng nên của để chơi.
Mua bán chọn lừa như buổi chợ,
Về nhà chưa tối đã qua đời.
Bính:Chưa kẻ dùng nên của để chơi.
Mua bán chọn lừa như buổi chợ,
Về nhà chưa tối đã qua đời.
Bính niên ngộ đắc vận thời lai,
Tâm diệt phàm trung Ðạo cả hoài.
Tại nội bất tri Thiên sắc tứ,
Năng tu quả nhựt diệu cân đai.
Chạy:Tâm diệt phàm trung Ðạo cả hoài.
Tại nội bất tri Thiên sắc tứ,
Năng tu quả nhựt diệu cân đai.
Chạy Trời trốn nắng ít ai lo,
Còn mảnh phàm tâm khổ nỗi trò.
Muốn cải cho qua căn số định,
Ngừa chừng giận dữ lúc giông to.
Quí:Còn mảnh phàm tâm khổ nỗi trò.
Muốn cải cho qua căn số định,
Ngừa chừng giận dữ lúc giông to.
Quí cho những kẻ tánh thiên nhiên,
Chẳng phải là ngu thiệt bởi hiền.
Trời Ðất trăm ngôi đà chín chín,
Tánh tình dường ấy vốn là Tiên.
Khiêm:Chẳng phải là ngu thiệt bởi hiền.
Trời Ðất trăm ngôi đà chín chín,
Tánh tình dường ấy vốn là Tiên.
Khiêm cung từ thuở tuổi thơ sanh,
Thương mẹ hiếu cha lắm nhọc nhằn.
Công quả ấy Thầy đà chép trước,
Nay xem tạng mặt thấy tu đành.
Nhâm:Thương mẹ hiếu cha lắm nhọc nhằn.
Công quả ấy Thầy đà chép trước,
Nay xem tạng mặt thấy tu đành.
Nhâm huyền nhứt khí nguyệt thanh quang,
Thùy vấn hà môn chỉ thị càng.
Thiên Ðịa vô ngôn thường tại thế,
Bất tri hà xứ kiến tinh quang.
Thiên:Thùy vấn hà môn chỉ thị càng.
Thiên Ðịa vô ngôn thường tại thế,
Bất tri hà xứ kiến tinh quang.
Thiên thơ dĩ định nhứt danh qui,
Tam Giáo quy nguyên chỉ thị kỳ.
Ðạo thị tối cao vô thế đoán,
Hà nhơn đảm tánh đáo khinh khi.
Ðinh:Tam Giáo quy nguyên chỉ thị kỳ.
Ðạo thị tối cao vô thế đoán,
Hà nhơn đảm tánh đáo khinh khi.
Ðinh ninh Thầy dặn trẻ đôi lời,
Mình biết Ðạo mình giữ đó thôi.
Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,
Phải coi nên chỗ để nên lời.
Hà Văn Ðược:Mình biết Ðạo mình giữ đó thôi.
Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,
Phải coi nên chỗ để nên lời.
Ðược thì mừng tu cực thì lo,
Phải nhớ câu thì lựa cá to.
Ngồi đợi nóng lòng đừng rút nhợ,
Cả ngày buồn giựt chẳng nên trò.
Võ Văn Nam:Phải nhớ câu thì lựa cá to.
Ngồi đợi nóng lòng đừng rút nhợ,
Cả ngày buồn giựt chẳng nên trò.
Nam nhi có nợ của song thân,
Biết chút lúa ăn chịu Ðạo phần.
Mình muốn rảnh rang Nhơn đạo xử,
Xong xuôi rồi mới đến Ðài Vân.
Lê Văn Triều:Biết chút lúa ăn chịu Ðạo phần.
Mình muốn rảnh rang Nhơn đạo xử,
Xong xuôi rồi mới đến Ðài Vân.
Triều thần mang nặng vẻ đai cân,
Lòn cúi chìu theo một Ðạo thần.
Nương bóng hạc cầm vui ít kẻ,
Hay chi quì lạy đứng ngoài sân.
Lê Văn Tài:Lòn cúi chìu theo một Ðạo thần.
Nương bóng hạc cầm vui ít kẻ,
Hay chi quì lạy đứng ngoài sân.
Tài mạng thường hay ghét lẫn nhau,
Hễ là có nhọc mới danh cao.
Chưa người nằm giữa nhà chờ của,
Biển nọ muốn qua mặc sóng nhào.
Phạm Văn Quí:Hễ là có nhọc mới danh cao.
Chưa người nằm giữa nhà chờ của,
Biển nọ muốn qua mặc sóng nhào.
Quí là tánh hạnh chẳng khoe khoang,
Cười kẻ trong lân tới cửa làng.
Hay tánh giúp cô đôi lúc chịu,
Nhọc thân chẳng quản cứ bền gan.
Cười kẻ trong lân tới cửa làng.
Hay tánh giúp cô đôi lúc chịu,
Nhọc thân chẳng quản cứ bền gan.
Thầy khen.
Lai:Lai Châu tiếng hạc gáy reo vang,
Sao chẳng tỉnh mê giấc ngỡ ngàng.
Năm lụng ngày qua thêm chất tuổi,
Những là lỡ lính với lừa quan.
Sánh:Sao chẳng tỉnh mê giấc ngỡ ngàng.
Năm lụng ngày qua thêm chất tuổi,
Những là lỡ lính với lừa quan.
Sánh vai Sào Phủ ẩn danh xưa,
Vì nẻo lợi danh cũng đã thừa.
Mau bước lui lần qua cõi tục,
Cười khan vui khóc thấy hay chưa.
Thờ: (Thời?)Vì nẻo lợi danh cũng đã thừa.
Mau bước lui lần qua cõi tục,
Cười khan vui khóc thấy hay chưa.
Thời lai gió đẩy đến Ðằng Vân,
Thường biết mình tuy cũng kép bần.
Như ốc mượn hồn đời há tiếc,
Bỏ qua cho rảnh kiếp phong trần.
Phạm Văn Nghé:Thường biết mình tuy cũng kép bần.
Như ốc mượn hồn đời há tiếc,
Bỏ qua cho rảnh kiếp phong trần.
Nghé nghe thì lóng tiếng hiền lương,
Ðạo đức con tua giữ một đường.
Biển đổi non dời đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường.
Nguyễn Thị Bày:Ðạo đức con tua giữ một đường.
Biển đổi non dời đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường.
Bày đờn ai khéo sắm đờn đây,
Ðể quỉ để ma ở cả bầy.
Lẩn bẩn cứ theo toan cám dỗ,
Làm cho nên nỗi Ðạo xa Thầy.
Ðể quỉ để ma ở cả bầy.
Lẩn bẩn cứ theo toan cám dỗ,
Làm cho nên nỗi Ðạo xa Thầy.
Thầy khuyên các con coi Thánh ngôn là quí trọng.
Nguyễn Thị Tỏ:Tỏ cùng vì gió nhắn chim Hồng,
Ngán bước đường mây mỏi dạ trông.
Gát nhớ riêng than câu biệt khách,
Phui pha qua lúc thẹn mình hồng.
Thị Kén:Ngán bước đường mây mỏi dạ trông.
Gát nhớ riêng than câu biệt khách,
Phui pha qua lúc thẹn mình hồng.
Kén tài mà lại chẳng nên tài,
Chẳng khác như nhằm rủi ước may.
Ðợi bóng thiều xế ngang cửa sổ,
Thành không thì cũng nội năm nay.
Phạm Thị Tiếng:Chẳng khác như nhằm rủi ước may.
Ðợi bóng thiều xế ngang cửa sổ,
Thành không thì cũng nội năm nay.
Tiếng đời hằng nói phước do lành,
Con chẳng biết tu cứ cạnh tranh.
Thiếu thốn chi con còn bức xách,
Thương nhau đồng loại cội và nhành.
Võ Thị Tỵ:Con chẳng biết tu cứ cạnh tranh.
Thiếu thốn chi con còn bức xách,
Thương nhau đồng loại cội và nhành.
Tỵ hiềm đừng để khí xung thiên,
Danh của Thầy con nhớ liệu nên.
Cầu nguyện Thần linh là thuốc báu,
Trong điều tai nạn bởi không hiền.
Thị Hội:Danh của Thầy con nhớ liệu nên.
Cầu nguyện Thần linh là thuốc báu,
Trong điều tai nạn bởi không hiền.
Hội xem cho rõ phép Thiên Hoàng,
Cầu lếu những điều của dị đoan.
Biết Ðạo biết tu là kế khéo,
Lựa là nay chọn với mai sang.
Cầu lếu những điều của dị đoan.
Biết Ðạo biết tu là kế khéo,
Lựa là nay chọn với mai sang.
Thầy không cho cầu thuốc nghe.
Trì Chia:Trì Chia người Thổ thiệt,
Ðạo đức kia còn biết.
An Nam thiệt giống Nam,
Vô Ðạo coi muốn hết.
Hòa Rấu:Ðạo đức kia còn biết.
An Nam thiệt giống Nam,
Vô Ðạo coi muốn hết.
Hòa rấu tại nhà đã đủ đôi,
Không thua ai ngày đủ hai nồi.
Phật Trời chứng chiếu lòng con thảo,
Lễ cúng Thầy đều đặn hưởng xôi ...
Không thua ai ngày đủ hai nồi.
Phật Trời chứng chiếu lòng con thảo,
Lễ cúng Thầy đều đặn hưởng xôi ...
Cười ...
Cung:Cung kính Phật Trời vốn họ ngươi,
Thầy khen cũng hết tỏ ra lời.
Thờ Thầy nếu đặng lòng thành thật,
Thầy giúp tuổi già đặng thảnh thơi.
Thầy khen cũng hết tỏ ra lời.
Thờ Thầy nếu đặng lòng thành thật,
Thầy giúp tuổi già đặng thảnh thơi.
Nội khuya bữa ấy có chư Nhu ở Soài Riêng qua xin nhập môn, giữa đường rủi bị đụng xe nên đến trễ. Bèn chỉnh Ðàn tái cầu.
Tái Cầu:
THÁI BẠCH
Quỉ Vương đại ác.
Chỉnh Ðàn nghiêm trang Thầy ngự.
THẦY
Các con.... Cười....Thượng sớ.
Ðỗ Ðơn Hóa:Hóa đức thiên tâm tắc Ðạo khai,
Hà do ngạ loại quỉ đương tài.
Phiêu phong chánh khí thiên thu tạo,
Tân thế minh oan đắc đảnh đài.
Hà do ngạ loại quỉ đương tài.
Phiêu phong chánh khí thiên thu tạo,
Tân thế minh oan đắc đảnh đài.
Thầy sẽ lập vị cho con nơi ấy... Thâu.
Lê Văn Nhu:Nhu phong chánh pháp nhủ truyền gia,
Ngọc mã kim môn đắc địa hòa.
Thánh chí biến sanh Nam Quốc vượng,
Thần oai hội hiệp tụng âu ca.
Ngọc mã kim môn đắc địa hòa.
Thánh chí biến sanh Nam Quốc vượng,
Thần oai hội hiệp tụng âu ca.
Thâu
Ðặng Quang Mão:Mão đai đặng thuở hoạn đường dò,
Mảnh thế nhiều phen chịu đắn đo.
Tháng lụn chờ cơn nơi nẻo chánh,
Thầm than chưa mặt đáng vai trò.
Mảnh thế nhiều phen chịu đắn đo.
Tháng lụn chờ cơn nơi nẻo chánh,
Thầm than chưa mặt đáng vai trò.
Thâu
Bùi Trừ Phòng:Phòng cơn bình địa nổi phong ba,
Con nhớ ngày nay đã có nhà.
Phải mắt phải tai tua cứu chúng,
Khỏi nơi khổ hải chịu mình sa.
Con nhớ ngày nay đã có nhà.
Phải mắt phải tai tua cứu chúng,
Khỏi nơi khổ hải chịu mình sa.
Thâu
Nguyễn Văn Nhượng:Nhượng cho kẻ trí dắt dìu mình,
Phải biết lóng đời nỗi trọng khinh.
Âm chất lo trau mình vẹn trước,
Trị đời đáng thế đến hòa bình.
Phải biết lóng đời nỗi trọng khinh.
Âm chất lo trau mình vẹn trước,
Trị đời đáng thế đến hòa bình.
Thâu
Lê Văn Giảng:Giảng lời đạo đức dạy người hiền,
Chẳng phải là quan ấy mới Tiên.
Lợi lộc chê hơn câu tiết nghĩa,
Ðừng qua nửa bước quá rừng thiền.
Chẳng phải là quan ấy mới Tiên.
Lợi lộc chê hơn câu tiết nghĩa,
Ðừng qua nửa bước quá rừng thiền.
Thâu
Ðoàn Văn Trọng:Trọng câu phước đức dạ lo nhân,
Phải mặt thanh liêm giữ kiệm cần.
Phú quí ấy là nơi Thiên định,
Bão bùng hết lúc đến hồi an.
Phải mặt thanh liêm giữ kiệm cần.
Phú quí ấy là nơi Thiên định,
Bão bùng hết lúc đến hồi an.
Thâu
Nguyễn Văn Ðức:Ðức cao thì mới đáng nên người,
Ðức thắng tài kia đã mấy mươi.
Có đức có tài giềng Ðạo trọng,
Không tài không đức hóa không thời.
Ðức thắng tài kia đã mấy mươi.
Có đức có tài giềng Ðạo trọng,
Không tài không đức hóa không thời.
Thâu
Nguyễn Văn Bộc:Bộc thì tu khảo thế huyền linh,
Thành đọa tùy công sở Ðạo hành.
Gia thế kiêm triêu thừa phúc hậu,
Thiên quang chánh đức dĩ khai minh.
Thành đọa tùy công sở Ðạo hành.
Gia thế kiêm triêu thừa phúc hậu,
Thiên quang chánh đức dĩ khai minh.
Thâu
Trương V. Quãng:Quãng trí minh tâm tắc thức thì,
Hành tàng huyền diệu thế nan tri.
Kỳ tâm sở hướng tà hồi chánh,
Ðắc cảnh Thiên ban hóa dạ trì.
Hành tàng huyền diệu thế nan tri.
Kỳ tâm sở hướng tà hồi chánh,
Ðắc cảnh Thiên ban hóa dạ trì.
Thâu
Trần Văn Ðước:Ðước tánh còn lo lắm nợ đời,
Ðường tu chưa đặng bước xa khơi.
Trong Trời miễn trẻ đòi ngày tưởng,
Dạ vọng từ nhiên hóa tiếng mời.
Ðường tu chưa đặng bước xa khơi.
Trong Trời miễn trẻ đòi ngày tưởng,
Dạ vọng từ nhiên hóa tiếng mời.
Thâu
Nguyễn Văn Quãng:Quãng chi cái số thảm cùng sầu,
Ở thế mà ngờ tưởng ở đâu.
Thương chút tấm lòng thành thật vậy,
Nhiều khi sợ lỗi với trên đầu.
Ở thế mà ngờ tưởng ở đâu.
Thương chút tấm lòng thành thật vậy,
Nhiều khi sợ lỗi với trên đầu.
Thâu
Võ Văn Niên:Niên ngoạt nhựt thời hữu định phân,
Bất tri thế sự thị phong vân.
Thương tâm hoài cổ lưu linh chí,
Thiện ác tùy công diệt đọa trần.
Bất tri thế sự thị phong vân.
Thương tâm hoài cổ lưu linh chí,
Thiện ác tùy công diệt đọa trần.
Thâu
Lê Văn Nhân:Nhân là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì nhân dân hóa quan.
Dân có trí nhân nhà nước trị,
Nước nhà nhân thiệt một cơ quan.
Cũng bởi vì nhân dân hóa quan.
Dân có trí nhân nhà nước trị,
Nước nhà nhân thiệt một cơ quan.
Thầy khuyên Nhân phải tu nhân nghe. Thâu.
Nguyễn Ðăng Khoa:Ðăng khoa thì có chức thì không,
Nghĩ đến thẹn cho mặt Tử Phòng.
Dưới đích làm ngai Tam Quốc vịnh,
Thầm lo có một tiếp Châu Công.
Nghĩ đến thẹn cho mặt Tử Phòng.
Dưới đích làm ngai Tam Quốc vịnh,
Thầm lo có một tiếp Châu Công.
Thầy khuyên khá kiếm cao kỳ mà hiểu nghe. Thâu.
Võ Văn Tỵ:Tỵ ác thân hiền mới phải trang,
Cũng trong xã hội một quan làng.
Ðưa đời ví biết vì dân dại,
Thì trước con tua dạy một làng.
Cũng trong xã hội một quan làng.
Ðưa đời ví biết vì dân dại,
Thì trước con tua dạy một làng.
Thâu
Ðài Văn Lía:Lía lịa mà chưa biết niệm đời,
Những lo nắng sớm với mưa mơi.
Cơm ngày hai bữa dư chi uổng,
Mặc thế đua chen thói bốc rời.
Những lo nắng sớm với mưa mơi.
Cơm ngày hai bữa dư chi uổng,
Mặc thế đua chen thói bốc rời.
Thâu
Nguyễn Văn Truyện:Truyện tích từ xưa chỉ dạy rằng,
Mặt đời trung nịnh dễ ai ngăn.
Minh mông Trời Ðất còn không lọt,
Huống lấp tội tình khỏi lưới giăng.
Mặt đời trung nịnh dễ ai ngăn.
Minh mông Trời Ðất còn không lọt,
Huống lấp tội tình khỏi lưới giăng.
Thâu
------------------
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Ngày 06-12-1926 (âl. 02-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ, lập Tân Luật và dạy đạo.
Lundi 06 Décembre 1926 (02-11-Bính Dần)THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Tửu.... Ða tạ.... Ða tạ.
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe. Ngọc Lịch Nguyệt nghe. Ða tạ.
Nhị vị Hiền Hữu có mặt tại đàn Minh Lý há? Bái tửu. Cười....
Nhị Hiền Hữu có biết Tề Thiên ngày hôm qua Tề Thiên nào chăng? Cười.... Ấy là Tề Thiên ngày Ðại Lễ, nhập xác cho Vĩnh của Lão đến nghe à.
Ta khen cả 4 vị Hiền Hữu chẳng bái lễ, thật rất phải thật rất hay, khen khen khen....
Tắc ngày ấy không có mặt, đừng vậy nữa.
Lễ chi? Ấy là cách chơi của lũ trẻ.
Từ đây đọc câu kinh nầy lại như vầy:
"Từ bi cứu thế giáng từ thiền".
Thượng Trung Nhựt bạch: Xin Ngài từ bi sửa kinh lại luôn thể.
- Lão sẽ đặt lại hết. Chỉnh Ðàn cho Thầy ngự.
---ooo---
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Trung bạch Thầy xin cho đình lại qua ngày thứ bảy tới sẽ nạp luật cho Thầy phê chuẩn....
Phải ở luôn luôn nơi Thánh Thất đặng lập luật sẵn. Nghe Thầy dạy, khởi đầu lập "Luật Tu" gọi là "Tịnh Thất Luật", kế nữa lập "Luật Trị" gọi là "Ðạo Pháp Luật", ba là lập "Luật Ðời" gọi là "Thế Luật", các con hiểu à?....
Hồng, con phải đợi ngày nào Thánh Thất an rồi, Thầy sẽ liệu định cho chư Huynh con lo liệu nghe à.
Chư Nhu thượng sớ:
Lê Quang Tường:Tường quang nhứt khí chiếu minh thiên,
Ðạo thủ khả tri ý diệu huyền.
Nhơn phẩm bất phân Tiên Phật vị,
Ðào trang thỉnh nhập cửu nguyên nhiên.
Ðạo thủ khả tri ý diệu huyền.
Nhơn phẩm bất phân Tiên Phật vị,
Ðào trang thỉnh nhập cửu nguyên nhiên.
Thâu
Chư Môn Ðệ biểu cả chúng sanh vào trong, dặn nó đứng gần cửa cho có hàng ngũ và an tịnh đặng nghe Ðạo.
Võ Văn Bửu:Bửu kinh đệ chiếu triệu qui hồi,
Khả tác từ duyên bất cử bôi.
Thiên Ðịa vô công Nam nhập hội,
Thành tùy luật khích nhân dân hồi.
Khả tác từ duyên bất cử bôi.
Thiên Ðịa vô công Nam nhập hội,
Thành tùy luật khích nhân dân hồi.
Thâu
Nguyễn Văn Nén:Nén hương đưa đủ nguyện lòng đưa,
Thầy khá khen cho tánh dối lừa.
Trời để mắt xem đời thiện ác,
Dữ răn lành thưởng thấy hay chưa?
Thầy khá khen cho tánh dối lừa.
Trời để mắt xem đời thiện ác,
Dữ răn lành thưởng thấy hay chưa?
Khá cải tà qui chánh nghe. Thâu.
Ðặng Văn Viết:Viết thành một bổn hiển Thiên Thơ,
Ðã trước muôn năm để tới giờ.
Lành dữ kiếp căn gần ngàn lượt,
Một phen lau sạch nợ thờ ơ.
Ðã trước muôn năm để tới giờ.
Lành dữ kiếp căn gần ngàn lượt,
Một phen lau sạch nợ thờ ơ.
Thâu
Lê Văn Tiền:Tiền duyên hậu vận rất vừa nhau,
Chẳng có một ai gọi khởi đào.
Mình muốn cải Trời là tưởng mộng,
Ðể xem cơ Tạo sẽ làm sao.
Chẳng có một ai gọi khởi đào.
Mình muốn cải Trời là tưởng mộng,
Ðể xem cơ Tạo sẽ làm sao.
Thâu
Ngô Văn Bá: (Thanh Ðiền, Tây Ninh)Ðá bia danh tạch chẳng bền chi,
Cái khó tua lo kịp với thì.
Danh lợi từ nhiên theo đạo đức,
Ðặng hay điều dở có lo chi.
Cái khó tua lo kịp với thì.
Danh lợi từ nhiên theo đạo đức,
Ðặng hay điều dở có lo chi.
Thâu
Phụ ghi: ...danh tạch... chúng tội nghĩ có thể la?...danh tạc...
Nguyễn Văn Khách:Khách du Tiên đời chẳng mấy người,
Cứ bốn điều tà gấm ghé chơi.
Cuộc rượu mắc hơn trăm kệ tụng,
Ðường oan nẻo tội hiếm người mời.
Cứ bốn điều tà gấm ghé chơi.
Cuộc rượu mắc hơn trăm kệ tụng,
Ðường oan nẻo tội hiếm người mời.
Thâu
Trung, từ đây sắp Ðàn nghiêm nghị một lần, rồi cứ đứng chỗ nầy chớ đừng làm có tiếng tăm nghe.
Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Chư Nhu thượng sớ.
Nguyễn Văn Ðức:Ðức tánh khen con có chí thành,
Lần đường đạo đức chẳng cầu danh.
Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,
Chẳng quản lao lung giữ tiếng lành.
Lần đường đạo đức chẳng cầu danh.
Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,
Chẳng quản lao lung giữ tiếng lành.
Thâu
Phạm Ngọc Mai:Mai tuyết đua chen trận gió đông,
Chia hai sắc trắng vẻ màu hồng.
Ðưa duyên đã lắm cơn may mắn,
Trước cửa khoe tươi cợt ả hồng.
Chia hai sắc trắng vẻ màu hồng.
Ðưa duyên đã lắm cơn may mắn,
Trước cửa khoe tươi cợt ả hồng.
Thâu
Trần Văn Gạo:Gạo châu củi quế gặp thời hư,
Biết bấy lâu chờ gặp thói dư.
Mãn nguyện chưa xong gia sự biến,
Còn lo một nỗi sắc còn tươi.
Biết bấy lâu chờ gặp thói dư.
Mãn nguyện chưa xong gia sự biến,
Còn lo một nỗi sắc còn tươi.
Thâu
Nguyễn Văn Nhương:Nhương là không nghĩa vốn không người,
Cái tánh dị thường ấy giống ngươi.
Chặt chịa cùng đời chưa rõ ích,
Thân còn lững chững nợ chưa rồi.
Cái tánh dị thường ấy giống ngươi.
Chặt chịa cùng đời chưa rõ ích,
Thân còn lững chững nợ chưa rồi.
Thâu
Mai Văn Xuân:Xuân thu biết đã đặng bao rồi,
Nghiệp chẳng nên mà vận chẳng xuôi.
Gặp lúc tai bay hơ hẫng chịu,
Lần theo đường Ðạo nợ đời rồi.
Nghiệp chẳng nên mà vận chẳng xuôi.
Gặp lúc tai bay hơ hẫng chịu,
Lần theo đường Ðạo nợ đời rồi.
Thâu
Ðoàn Văn Thương:Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu,
Ăn thể ăn đi chịu thảm sầu.
Con vốn như người Thầy nói đó,
Biết ai con trả lại đôi câu.
Ăn thể ăn đi chịu thảm sầu.
Con vốn như người Thầy nói đó,
Biết ai con trả lại đôi câu.
Biểu nó nói.... nhà Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu.
Lũ bây cũng chưa hiểu thơ há? Cho nữa vô ích. Thầy nói Thương là nhà Thương, các con hiểu thương là thương, ngu ngu ngu....
Cư, con đọc già đời cũng vậy há.
Thằng Thương nó giống như Bá Di, Thúc Tề nó mới chịu khổ vậy đó các con.
Nguyễn Văn Nở:Nỡ đem thân ngọc bỏ đồng không,
Hiu hắt một thân chẳng biết giòng.
Lo liệu chưa qua điều sở vọng,
Nay toan để bước lối nâu sồng.
Hiu hắt một thân chẳng biết giòng.
Lo liệu chưa qua điều sở vọng,
Nay toan để bước lối nâu sồng.
Thâu
Phạm V. Truyện:Truyện tích xưa ghi lẽ khí trung,
Cũng là giòng giống đấng anh hùng.
Bởi chưng chưa biết quyền Trời Ðất,
Lại để cháu con gánh não nùng.
Cũng là giòng giống đấng anh hùng.
Bởi chưng chưa biết quyền Trời Ðất,
Lại để cháu con gánh não nùng.
Thâu
Trương Văn Nho:Nho truyền đã lắm nhục bề Tiên,
Mặt thế chưa ai biết nét hiền.
Có lợi cho danh thường hiếp chúng,
Vì điều oan nghiệt tổ tiên truyền.
Mặt thế chưa ai biết nét hiền.
Có lợi cho danh thường hiếp chúng,
Vì điều oan nghiệt tổ tiên truyền.
Thâu
Võ Thị Xòn:Hầu Ðàn nữa, khá trai giới, cải tà qui chánh.
Trương Văn Chua:Chua cay đã chịu lắm mùi đời,
Bán thế gỡ chưa khỏi vận thời.
Kẻ hiếp người khi vì chánh trực,
Gặp Thầy khi trẻ đặng an nơi.
Bán thế gỡ chưa khỏi vận thời.
Kẻ hiếp người khi vì chánh trực,
Gặp Thầy khi trẻ đặng an nơi.
Thâu
Phạm Thị Yến:Yến Tử Hà xưa lúc vận cùng,
Còn mang dép rách đến Quang Trung.
Nay con chưa đủ thông đường Ðạo,
Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng.
Còn mang dép rách đến Quang Trung.
Nay con chưa đủ thông đường Ðạo,
Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng.
Thâu
Nguyễn Văn Bạch:Bạch thủ thành gia ít kẻ tài,
Cũng như Huệ Mạng thế không hai.
Việc đời chẳng khác quyền Trời Ðất,
Duy cứ đức đong đến võ đài.
Cũng như Huệ Mạng thế không hai.
Việc đời chẳng khác quyền Trời Ðất,
Duy cứ đức đong đến võ đài.
Thâu
Nguyễn Văn Trữ:Trữ đức còn hơn muốn trữ vàng,
Giàu sang chẳng chuộng gánh giang san.
Hễ đời càng dữ càng kiên đức,
Võ lực hùng oai cũng chẳng màng.
Giàu sang chẳng chuộng gánh giang san.
Hễ đời càng dữ càng kiên đức,
Võ lực hùng oai cũng chẳng màng.
Thâu
Thầy dặn từ đây, hễ có cha mẹ các lũ trẻ nào đã làm Môn Ðệ, đừng để chúng nó làm rộn Thầy như vậy nữa nghe.
Lê Thị Trước:Trước lâm chứa đặng bảy ông Hiền,
Vì bỏ tục trần mến cảnh Tiên.
Hồng cấu đã chui thân phải vấy,
Hơn thua cười kẻ biết nơi tiền.
Vì bỏ tục trần mến cảnh Tiên.
Hồng cấu đã chui thân phải vấy,
Hơn thua cười kẻ biết nơi tiền.
Thâu
Giác:Giác đời từ thử một mùi thiền,
Ðã đợi Phật duyên, gặp Phật duyên.
Hé mắt nửa ngờ còn nửa tưởng,
Tính đi tính lúng đặng như nguyền.
Ðã đợi Phật duyên, gặp Phật duyên.
Hé mắt nửa ngờ còn nửa tưởng,
Tính đi tính lúng đặng như nguyền.
Cười.... Thâu.
Trung, con nói với chúng nó nơi Thánh Thất nầy duy để cho chúng sanh cầu Ðạo mà thôi.
Qua ba tháng, Thầy sai Lý Bạch cho thuốc và gia đạo.
Chẳng lẽ bậc Chí Tôn như Thầy, mà cho hỏi những việc phi thường dường ấy. Thầy ban ơn cho các con.
---ooo---
Lundi 06 Décembre 1926 (02 tháng 11 năm Bính Dần).NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Ta vì lòng Ðại Từ, Ðại Bi, vẫn lấy đức háo sanh mà dựng nên mối Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, tôn chỉ để vớt những kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi, và nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở nơi trần thế nầy.
Than ôi! Ðiều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới; mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi uốn lưỡi mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề, đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.
Ai đặng phước thì trí não vẫn thanh cao, lòng tin tưởng càng thêm cao trọng. Ai vô phần thì trí não vẫn mờ hồ, nét hạnh đời càng mê muội; biết biết không không, luật Trời đã định phần; công quả trả cho rồi thì cảnh u nhàn là nơi rước khách tục lúc chung qui đó.
Sanh nhằm đời có một Ðạo chánh chẳng phải dễ, mà bước lên con đường chông gai, lần vào non cao kiếm ngọc lại càng khó; khó dễ nơi lòng, chớ đem thói ám muội mờ hồ vào đường đạo đức, sau ăn năn rất muộn.
------------------------------
Ngày 07-12-1926 (âl. 03-11-Bính Dần): Ðức Quan Thánh Khai Ðàn Huỳnh Văn Sĩ..
Mardi 07 Décembre 1926 ( 03 tháng 11 Bính Dần).
Khai Ðàn Huỳnh Văn Sĩ.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Mardi 07 Décembre 1926 ( 03 tháng 11 Bính Dần).
Khai Ðàn Huỳnh Văn Sĩ.
Thiên Phong bình thân.
Quang minh khá rõ chánh cùng tà,
Thánh đức ngôi xưa chẳng ở xa.
Hữu phước sẵn Thầy năng cải số,
Kỷ cang liệu để tánh ôn hòa.
Thánh đức ngôi xưa chẳng ở xa.
Hữu phước sẵn Thầy năng cải số,
Kỷ cang liệu để tánh ôn hòa.
Quan Thánh Ðế thừa mạng Ngọc Hoàng Thượng Ðế khai Thiên Bàn. Khai Ðàn.
Nguyễn Văn Hùng:Hùng suy đã lắm thảm buồn vui,
Cái bả vinh hoa hưởng đủ mùi.
Ðạo đức thần linh không kẻ chuộng,
Éo le hơn thiệt gánh không rồi.
Cái bả vinh hoa hưởng đủ mùi.
Ðạo đức thần linh không kẻ chuộng,
Éo le hơn thiệt gánh không rồi.
Quan Thánh Ðế đại hỉ, đại hỉ.
------------------
Ngày 08-12-1926 (âl. 04-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mercerdi 08 Décembre 1926 (04-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Chư Nhu không miệng há?
Tưởi! Hiền Hữu từ đây phò loan không đặng đọc nữa, Lão cấm. Cả chư Thiên Phong xúm đọc.
Ðạo Minh Hiền Muội, Thầy đã dạy Lão rằng Hiền Muội xin đi phổ độ.
Thầy dạy Lão cho phép Hiền Muội đi vậy.
Hiền Muội lãnh chức Nữ Giáo Sư đi từ Rằm tháng nầy cho tới Rằm tháng tới phải có mặt tại Thánh Thất hầu Ðại Lễ. Hiền Muội gắng công hiệp Nữ phái Minh Ðường lại thì công ấy không phải nhỏ; quyền hành thưởng phạt Lão công bình.
Hiền Muội khá lo công quả, Thầy dặn chư Ðạo Hữu lo bề hành lý; Hiền Muội bình thân, chỉnh đàn Thầy đến.
---
Phụ ghi: Tưởi! Hiền Hữu... chúng tội nghĩ có thể là Tươi! Hiền Hữu...
---ooo---
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Nhu, chư Ái Nữ,
Trung, con rán coi nghe.
Bính, Thái Bạch phiền rằng con dở nghe con.
Chư Nhu thượng sớ:
Là phần đã định trái oan xưa,
Một nghĩa phu thê khá lọc lừa.
Nghiệp cả nhà cao không phải phận,
Ðiềm may sau cũng hội công hầu.
Một nghĩa phu thê khá lọc lừa.
Nghiệp cả nhà cao không phải phận,
Ðiềm may sau cũng hội công hầu.
Thâu
Trần Văn Lộc:Lộc xưa chẳng đức giữ cho bền,
Phường chạ nay đành gởi tuổi tên.
Nợ nước ơn nhà đôi gánh nặng,
Một lòng son sắt khá cho bền.
Phường chạ nay đành gởi tuổi tên.
Nợ nước ơn nhà đôi gánh nặng,
Một lòng son sắt khá cho bền.
Thâu
Trần Văn Báu:Báu nhà chữ hiếu đứng làm đầu,
Biết Ðạo thì con biết nghĩa sâu.
Dưới gối nhiều lời đưa nọc rắn,
Mài gươm con khá mượn mưu mầu.
Biết Ðạo thì con biết nghĩa sâu.
Dưới gối nhiều lời đưa nọc rắn,
Mài gươm con khá mượn mưu mầu.
Thâu
Trình Văn Dính:Dính Thiên muôn ác động lòng người,
Con chẳng sửa lòng đến tưởng chơi.
Ngoài mặt thì đời hằng dễ thấy,
Trong tâm biết đặng có ông Trời.
Con chẳng sửa lòng đến tưởng chơi.
Ngoài mặt thì đời hằng dễ thấy,
Trong tâm biết đặng có ông Trời.
Thâu
Trần Văn Nai:Nay về đảnh Hớn bỏ đền Tần,
Ðẹp mắt xem đời đã cải tân.
Góp một nhà chung dân mấy sắc,
Người người Thầy sẵn để dành phần.
Ðẹp mắt xem đời đã cải tân.
Góp một nhà chung dân mấy sắc,
Người người Thầy sẵn để dành phần.
Thâu
Lê Bửu ...:Ðờn hay vì có kẻ tri âm,
Dựa bệ không ai cũng tủi thầm.
Non nước đành xem theo bóng vẽ,
Mãnh đời mãn nguyện với ô tâm.
Dựa bệ không ai cũng tủi thầm.
Non nước đành xem theo bóng vẽ,
Mãnh đời mãn nguyện với ô tâm.
Thâu
Bùi Ðức ...:Tâm thành con động chín từng Trời,
Chớ trách Thầy xưa chẳng để lời.
Khuất mặt mà lòng Thầy vốn ngự,
Thương tâm con thảo để gương đời.
Chớ trách Thầy xưa chẳng để lời.
Khuất mặt mà lòng Thầy vốn ngự,
Thương tâm con thảo để gương đời.
Thầy sẽ trọng dụng. Thâu.
Ðặng Văn Ấc:Ất niên con giữ nỗi tai ương,
Muốn tránh cho qua phải liệu đường.
Tu niệm làm lành hay cải số,
Tâm khá hiểu Ðạo phi thường.
Muốn tránh cho qua phải liệu đường.
Tu niệm làm lành hay cải số,
Tâm khá hiểu Ðạo phi thường.
Chẳng một đứa nào nên thân, Thầy sẽ dạy Lý Bạch tập các con Tín nữ.
Thượng sớ:
Phạm Thị Lánh:Lánh đường trần tục đến non Tiên,
Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.
Ðã chẳng phải duyên không phải nợ,
Can chi con buộc tấm tình riêng.
Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.
Ðã chẳng phải duyên không phải nợ,
Can chi con buộc tấm tình riêng.
Thâu
Thầy thâu cả bên Nam hết; mấy con khá sợ Thái Bạch nghe, nhứt là Lịch và Bính nghe người hạch văn nghe. Thăng.
-------------------
Võ Văn Chánh:
Ngày 10-12-1926 (âl. 06-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Vendredi 10-12-1926 (06-11-Bính Dần)THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Ða tạ.... Ða tạ..... Cười.
Như Nhãn gan lớn thiệt, Thánh ý Thầy.
Thái Bạch - Hỉ Ðạo Hữu,
Tệ Ðệ tề quới: đòi Ðạo Hữu lên.
Thánh ý Thầy Lão chưa đem thố lộ, chẳng qua Thầy muốn để vậy mà xem sự hành Ðạo của chư Ðạo Hữu đó.
Thơ, Thánh Thất đòi lại đặng cùng chăng là tại nơi Thơ và vợ Thơ, Thầy và Lão đợi xem.
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu biết rằng Thánh Thất nầy chư Ðạo Hữu cũng có tổn phí, đợi kẻ gian manh làm thế nào mà đòi. Chư Ðạo Hữu thế nào mà trả, trước mặt luật Trời chưa phải dễ sang đoạt nghe à....
Lão sẽ điều đình, Thầy sẽ dạy Lão làm thế nào cho chúng nó biết oai linh Thầy.
Chỉnh Ðàn. Trung bạch Ngài dạy về sự đám táng của Tương?
Thây kệ kẻ vô dụng.
THẦY
Các con,
Thầy buồn lắm, các con cái biết nhơn sanh lắm chịu đau đớn khổ não, Thầy muốn làm thế nào giảm bớt cái kiếp đày các con, lại còn quyết đóng cửa luân hồi cho tuyệt lối sanh sanh tử tử, nhưng mà trong hàng Môn Ðệ có đứa phản Thầy. Các con ôi, nếu Thầy bỏ các con thì các con sẽ thế nào.
Thầy chẳng phải sợ chi cho Ðạo, ngặt lòng thương yêu Thầy nó làm cho Thầy đau đớn, thấy tên tuổi nhiều đứa yêu dấu Thầy đã bị treo tại cửa Phong Ðô đợi ngày hành xác. Thảm thay! Ðau đớn thay!... Ðại lụy!
Các con giữ mình cho lắm nghe.
Các con, chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ.
Trung xin cho Cư đọc. Ðặng.... Lý Thái Bạch không chịu.
Nhuần, con nghe, con đợi Thầy dạy dỗ chồng con đạo đức chút đỉnh. Nó có tâm hiền mà ngặt Ðạo cũng chưa thông, chưa phải hồi lãnh mạng lịnh độ rỗi con cái Trung Huê của Thầy, con an lòng nghe.
Huỳnh Thị Sanh:Sanh đời nắng lửa với mưa dầu,
Tội là đâu phước lại là đâu.
Chiu chít như chim cơn khuất bóng,
Mơi vui rồi tối chịu đeo sầu.
Tội là đâu phước lại là đâu.
Chiu chít như chim cơn khuất bóng,
Mơi vui rồi tối chịu đeo sầu.
Thâu
Lâm Am Cung:Trương cung chim đỡ thế nào đang,
Mất phước ôn nhu ấy mất nhàn.
Quyền biến dầu mình khi buổi ngặt,
Dằn lòng chớ tránh kế mưu gian.
Mất phước ôn nhu ấy mất nhàn.
Quyền biến dầu mình khi buổi ngặt,
Dằn lòng chớ tránh kế mưu gian.
Thâu
Sum vầy các sắc các con nhà,
Dầu phải sang hèn cũng một cha.
Nương dựa con tua vầy hiệp bạn,
Ðường đời cũng thế chẳng bao xa.
Dầu phải sang hèn cũng một cha.
Nương dựa con tua vầy hiệp bạn,
Ðường đời cũng thế chẳng bao xa.
Thâu
Trung, nó là kẻ yêu Thầy, con khá dạy nó cách cầu nguyện để thờ phượng Thầy.
Xà inh con chớ ngại ngùng chi,
Các việc con xin ý đặng tùy.
Nền Ðạo của Thầy nền Ðạo cả,
Con con đừng sợ thị hòa phi.
Các việc con xin ý đặng tùy.
Nền Ðạo của Thầy nền Ðạo cả,
Con con đừng sợ thị hòa phi.
Thâu
Thầy cũng dặn Trung như vậy.
Mi trừng nhãn kiến giữa không trung,
Choán khắp Càn Khôn đã thấu lòng.
Ðặng dạ nhơn sanh chưa phải dễ,
Ðạo mầu khởi lập xuất nơi Ðông.
Choán khắp Càn Khôn đã thấu lòng.
Ðặng dạ nhơn sanh chưa phải dễ,
Ðạo mầu khởi lập xuất nơi Ðông.
Thâu
Nguyễn Văn Ðủ:Ðủ mùi cay đắng chịu cùng đời,
Ðã thấy ra gì đó hỡi ngươi.
Lần lựa chưa xong Nhơn đạo giữ,
Mà nam đã chất thấu vênh Trời.
Ðã thấy ra gì đó hỡi ngươi.
Lần lựa chưa xong Nhơn đạo giữ,
Mà nam đã chất thấu vênh Trời.
Thâu
Thuộc:Thuộc lòng hai chữ ái nhơn xưa,
Phải đức trái oan trả nợ thừa.
Lữ Vọng bảy mươi còn sự nghiệp,
Huống ngươi ..... tuổi lợi danh chưa.
Phải đức trái oan trả nợ thừa.
Lữ Vọng bảy mươi còn sự nghiệp,
Huống ngươi ..... tuổi lợi danh chưa.
Thâu
Ní:Ní na sớm xóm với chiều làng,
Ðã khởi oan mà chẳng phải oan.
Ngơ ngáo thế tình, ngơ ngáo phận,
Bao chừ Thầy hỏi đặng vinh sang.
Ðã khởi oan mà chẳng phải oan.
Ngơ ngáo thế tình, ngơ ngáo phận,
Bao chừ Thầy hỏi đặng vinh sang.
Thâu
Tái cầu cho hai đứa nhỏ nghỉ.
---ooo---
THẦY
Các con thượng sớ.
Nguyễn Văn Cỏn:Cỏn con sự nghiệp cũng bồng tang,
Lợi lộc tí ti cũng nhận nhàn.
Ðức tám tội mươi như Lão lộ,
Nhằm nơi phải chợ chẳng so hàng.
Lợi lộc tí ti cũng nhận nhàn.
Ðức tám tội mươi như Lão lộ,
Nhằm nơi phải chợ chẳng so hàng.
Thâu
Cho hay nhơn định chẳng qua Trời,
Non đảnh đưa xuồng gặp khó bơi.
Chi bẳng tùy theo Thiên ý định,
Cũng như buồm thuận gió đưa hơi.
Non đảnh đưa xuồng gặp khó bơi.
Chi bẳng tùy theo Thiên ý định,
Cũng như buồm thuận gió đưa hơi.
Thâu
Hoài:Hoài cố tư nhân tánh Ðạo tâm,
Nhơn nhơn dĩ định thánh Thiên tâm.
Tu thân bất viễn sanh môn nhập,
Thạnh khí cường chơn hạnh ngộ thần.
Nhơn nhơn dĩ định thánh Thiên tâm.
Tu thân bất viễn sanh môn nhập,
Thạnh khí cường chơn hạnh ngộ thần.
Võ Văn Chánh:
Chánh khí bất năng nạp chánh tà,
Nhơn sanh tại thế thị như ma.
Thiên môn hữu thỉnh vô nhân đáo,
Ðịa ngục vô ngôn hữu khách hòa.
Nhơn sanh tại thế thị như ma.
Thiên môn hữu thỉnh vô nhân đáo,
Ðịa ngục vô ngôn hữu khách hòa.
Thâu
Ðiều:Ðiều đình gia thất vẹn nhơn luân,
Cái nẻo Thiền môn giống đám rừng.
Trước muốn bước vào coi nhắm hướng,
Kẻo lầm đường rậm ngỡ ngàng chân.
Cái nẻo Thiền môn giống đám rừng.
Trước muốn bước vào coi nhắm hướng,
Kẻo lầm đường rậm ngỡ ngàng chân.
Thâu
Bính:Bính ngọc Tương Như mấy được dành,
Chưa ra giá đáng xót oai danh.
Buông cương đẩy núi xưa Hạng Võ,
Một kiếp chưa rồi hết lối tranh.
Chưa ra giá đáng xót oai danh.
Buông cương đẩy núi xưa Hạng Võ,
Một kiếp chưa rồi hết lối tranh.
Thâu
Dần:Dần dà những hẹn với căn tu,
Ðau mắt không lo để đợi mù.
Một bước qua ngày trăm bước trễ,
Một lời chẳng khéo mấy năm tù.
Ðau mắt không lo để đợi mù.
Một bước qua ngày trăm bước trễ,
Một lời chẳng khéo mấy năm tù.
Thâu
Mười:Mười voi chưa đủ gọi mình sang,
Huống ỷ khôn lanh cứ hiếp làng.
Tâm địa của Trời đời ắt biết,
Phải toan sợ tội cải tà gian.
Huống ỷ khôn lanh cứ hiếp làng.
Tâm địa của Trời đời ắt biết,
Phải toan sợ tội cải tà gian.
Thâu
Khánh:Khánh chuông tiếng khởi giục nhơn sanh,
Bỏ ác mà đi đến nẻo lành.
Kiếp phước phải ngừa lo kiếp phạt,
Hễ là có thưởng phạt theo mình.
Bỏ ác mà đi đến nẻo lành.
Kiếp phước phải ngừa lo kiếp phạt,
Hễ là có thưởng phạt theo mình.
Thâu
Triệu:Triệu thành vị vọng phước tinh suy,
Phấn khí đắc tâm đắc thế thì.
Hậu vận vinh huê thiên lý mộng,
Bất như nhàn lạc tụng A Di.
Phấn khí đắc tâm đắc thế thì.
Hậu vận vinh huê thiên lý mộng,
Bất như nhàn lạc tụng A Di.
Thâu
Ðoàn Văn ...:Thảo căn mộc bổn thạnh tương cầu,
Ngự hám công khanh nhứt thế ưu.
Sanh tịch han tri căn số tác,
Hà do thế sự độ cao mưu.
Ngự hám công khanh nhứt thế ưu.
Sanh tịch han tri căn số tác,
Hà do thế sự độ cao mưu.
Thâu
Ðặng:Ðặng vàng mà bỏ kiếm đồng thau,
Sự nghiệp vì đây cũng để vào.
Trí não không cơn vui đạo đức,
Ðức không đủ đặng có nên giàu.
Sự nghiệp vì đây cũng để vào.
Trí não không cơn vui đạo đức,
Ðức không đủ đặng có nên giàu.
Thâu
Lê Văn Hát:Hát lường chèo chống cũng đưa bơi,
Cầu Phật cầu Tiên cũng đợi mời.
Thiệt dạ Ta khuyên về ít bữa ,
Vái van thưa tội với Ông Trời.
Cầu Phật cầu Tiên cũng đợi mời.
Thiệt dạ Ta khuyên về ít bữa ,
Vái van thưa tội với Ông Trời.
Thâu
Sĩ tử nhà văn cũng tiếng rằng,
Chẳng gìn nết hạnh khách Nho văn,
Ðem câu nhơn nghĩa khoe ngoài miệng,
Xảo trá hung hăng ít kẻ bằng.
Chẳng gìn nết hạnh khách Nho văn,
Ðem câu nhơn nghĩa khoe ngoài miệng,
Xảo trá hung hăng ít kẻ bằng.
Thâu
Huỳnh Thị Hảo:Hảo tai một gái nữ anh tài,
Mới biết mà tâm Ðạo quá hay.
Khá bắt chước nhuần lo độ chúng,
Dầu nên thành Phật cũng Bồng Lai.
Mới biết mà tâm Ðạo quá hay.
Khá bắt chước nhuần lo độ chúng,
Dầu nên thành Phật cũng Bồng Lai.
Thâu
Huỳnh Thị Tức:Tức y tức thực khỏi lo chi,
Tu tánh tu tâm khá kịp thì.
Nương phướn Tây Thiên về cảnh tịnh,
Bỏ nơi phiền não chịu ai bi.
Tu tánh tu tâm khá kịp thì.
Nương phướn Tây Thiên về cảnh tịnh,
Bỏ nơi phiền não chịu ai bi.
Thâu
Lê Thị Tùy:Tùy duyên tùy phận đãi cùng đời,
Ðừng rán tranh giành phải mỏn hơi.
Nước vốn đầy sông tùy kẻ xách,
Lộc kia đầy đất tại người dời.
Ðừng rán tranh giành phải mỏn hơi.
Nước vốn đầy sông tùy kẻ xách,
Lộc kia đầy đất tại người dời.
Thâu
Nguyễn Thị Lươm:Lươm lo hai chữ phước nơi nhà,
Chẳng biết tu lại đến hỏi ta.
Mượn chước cầu nghe đôi việc muốn,
Rồi ra cũng giữ một lòng tà.
Chẳng biết tu lại đến hỏi ta.
Mượn chước cầu nghe đôi việc muốn,
Rồi ra cũng giữ một lòng tà.
Thâu
Ngô Thị Hiền:Hiền lương tánh đức vốn thiên nhiên,
Mảng tưởng chồng con phải chịu hiền.
Thầy dặn đừng lo điều quá trí,
Ðời Ðời Ðạo Ðạo mới là nên.
Mảng tưởng chồng con phải chịu hiền.
Thầy dặn đừng lo điều quá trí,
Ðời Ðời Ðạo Ðạo mới là nên.
Thâu
Bùi Văn Nhầm:Nhành vàng tuy chẳng đượm sân Ngô,
Cái miệng trung trinh giống Ðổng Hồ.
Chánh trực vô tư thiên hạ ghét,
Thường xem khách trọng giống chàng Tô.
Cái miệng trung trinh giống Ðổng Hồ.
Chánh trực vô tư thiên hạ ghét,
Thường xem khách trọng giống chàng Tô.
Thâu
Nguyễn Văn Nở:Nỡ đem chén ngọc đựng màu chàm,
Chẳng biết phận mình thế cuộc ham.
Thương kẻ dò đường không gặp tiếp,
Của không gìn trọn bụng hằng tham.
Chẳng biết phận mình thế cuộc ham.
Thương kẻ dò đường không gặp tiếp,
Của không gìn trọn bụng hằng tham.
Thâu
Lượng trên đã mở đức nhiêu dung,
Tu tánh từ đây Ðạo khá tùng.
Trước dại sau thôi đừng dại nữa,
Kẻo không thoát khỏi cửa Diêm Cung.
Tu tánh từ đây Ðạo khá tùng.
Trước dại sau thôi đừng dại nữa,
Kẻo không thoát khỏi cửa Diêm Cung.
Thâu
Nguyễn Thị ...:Thấm duyên con trước giống nên hiền,
Phải kiếp trần gian phải kiếp Tiên.
Còn sống một ngày lo đạo đức,
Chi chi con khẩn toại như nguyền.
Phải kiếp trần gian phải kiếp Tiên.
Còn sống một ngày lo đạo đức,
Chi chi con khẩn toại như nguyền.
Thâu
Nguyễn Thị ...:Tường đông bóng nguyệt xế đầu nhành,
Con đã kiêng dè sợ Ðấng sanh.
Mượn kiếp đào hoa răn kiếp trước,
Không tu Thầy dặn khó thi hành.
Con đã kiêng dè sợ Ðấng sanh.
Mượn kiếp đào hoa răn kiếp trước,
Không tu Thầy dặn khó thi hành.
---------------------
Ngày 11-12-1926 (âl. 07-11-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy lễ an táng Chưởng Pháp Thượng Tương Thanh.
Samedi 11 Décembre 1926 (07-11-Bính Dần).THẦY
Các con,
Diêu đợi nghe.
Trung, Lịch, hai con phải dụng Ðại Lễ mà an táng Tương nghe. Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào đem Tương vào "Tam Thập Lục Thiên" phải để nó đợi nơi "Ðông Ðại Bộ Châu" mà chờ Tòa Tam Giáo phát đạt. Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi. Nhưng Người giận Tương không công quả, dâng bộ công Thiên Thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cải chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến.
Các con nghe à.
Vậy trong Hịch Văn Sớ Tấu, các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẽ rỗi cho nó. Các con hiểu.
Lịch bạch Thầy về sự Ðại Lễ.....
Không con... Ðại Lễ là làm theo một lễ với sự an táng bậc Thái Lão nghe.
Trung, Lịch đứng tên.
Diêu, con chưa đặng định Thần khi Thầy giáng há! Những lời Thầy dạy con phải sắp đặt phần Nhơn đạo rồi sẽ lấy hồn xác con mà dùng về việc Ðạo, nghĩa là: Con phải tính cho xong phận sự làm người rồi lo hành Ðạo mà thôi. Con hiểu à.
Thầy còn dạy con nhiều nữa Diêu.
Trung, Lịch, lễ ấy phải khởi đầu giờ Tý nghe.
Thầy ban ơn cho các con.
-----------------
Ngày 13-12-1926 (âl. 09-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Lundi 13 Décembre 1926 (09-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Thiện Nam Tín Nữ,
Thánh Thất đã an, chư Hiền Hữu phải chỉnh nghi cho tinh tấn.
Thầy dạy Thượng Trung Nhựt Hiền Hữu lo sắp đặt cho ra nghi tiết. Thì sắp đặt sau lưng bàn Hộ Pháp, phải để một miếng nỉ dài một thước rưỡi, cao ba thước, thêu chữ bùa Lão vẽ đây (chữ Khí).
Làm một cái bàn thờ ba nấc, giữa cao hai bên bằng cho Thượng Phẩm và Thượng Sanh đứng.
Chư Ðạo Hữu chỉnh đàn cho Thầy ngự.
Ai chẳng y quan tử tế, xuất ngoại.
Nghe và tuân mạng.
La T. Hạp:Hạp theo phong hóa giữ đường tu,
Nước cạn non mòn đạo đức như.
Gió nắng chưa hay ngày vắng dạng,
Muôn đời khoe một nết nên hư.
Nước cạn non mòn đạo đức như.
Gió nắng chưa hay ngày vắng dạng,
Muôn đời khoe một nết nên hư.
Thâu
Thị Trước:Trước mai chẳng hiệp nghĩa thơ cưu,
Mấy kiếp vì chưa trả hết thù.
Vẹn Ðạo khá lo riêng chút phận,
Cái công nhắn khách gởi đường tu.
Mấy kiếp vì chưa trả hết thù.
Vẹn Ðạo khá lo riêng chút phận,
Cái công nhắn khách gởi đường tu.
Thâu
Thị Biện:Biện phân cho hiểu chút thân sau,
Nhơn trước Thiên môn chửa biết vào.
Thấy lối lành đưa qua mặt thế,
Nỗi lưu ly phận chẳng riêng bâu.
Nhơn trước Thiên môn chửa biết vào.
Thấy lối lành đưa qua mặt thế,
Nỗi lưu ly phận chẳng riêng bâu.
Thâu
Thị Nhờ:Nhờ ai nay đặng nghiệp nhà an,
Mà lại cưu cưu muốn phụ phàng.
Dưa muối đã cùng nhau cực nhọc,
Phải nhìn lấy mặt buổi vinh sang.
Mà lại cưu cưu muốn phụ phàng.
Dưa muối đã cùng nhau cực nhọc,
Phải nhìn lấy mặt buổi vinh sang.
Thâu
Thị Bính:Bính niên canh hạn đã gần qua,
Hết buổi lưu linh tới có nhà.
Ðức hạnh một lòng lo trọn Ðạo,
Vì tu nên phận đặng nên bà.
Hết buổi lưu linh tới có nhà.
Ðức hạnh một lòng lo trọn Ðạo,
Vì tu nên phận đặng nên bà.
Thâu
Thị Nhân:Nhân duyên mấy lúc chẳng như nguyền,
Vì dạ con đương lúc đảo điên.
Phải nợ tiền khiên dầu khó nhọc,
Cũng lo trọn đạo vợ chồng hiền.
Vì dạ con đương lúc đảo điên.
Phải nợ tiền khiên dầu khó nhọc,
Cũng lo trọn đạo vợ chồng hiền.
Thâu
Thị Nguyên:Nguyên tình chớ khá để riêng lòng,
Muốn tát cho cùng nước biển Ðông.
Ðồng chí đồng tâm chồng với vợ,
Dầu toan cởi phụng đến đền Rồng.
Muốn tát cho cùng nước biển Ðông.
Ðồng chí đồng tâm chồng với vợ,
Dầu toan cởi phụng đến đền Rồng.
Thâu
Thị Trà:Trà mi khi đã dựa cung đài,
Căn cứ chi nên phải lạc loài.
Vì đức chẳng giồi lo chút Ðạo,
Mà ra rẻ rúng cái nhơn tài.
Căn cứ chi nên phải lạc loài.
Vì đức chẳng giồi lo chút Ðạo,
Mà ra rẻ rúng cái nhơn tài.
Thâu
Thị Xa:Xa nơi hiền đức giữ căn xưa,
Cái tánh hung hăng biểu phải chừa.
Lấn lướt đặng đời Trời ghét mặt,
Hình răn nào phải đợi người thưa.
Cái tánh hung hăng biểu phải chừa.
Lấn lướt đặng đời Trời ghét mặt,
Hình răn nào phải đợi người thưa.
Thâu
Thị Chi:Chi nên an mạng gắng tùy thời,
Chẳng cánh buồm trương rán sức hơi.
Ðừng thấy sang hèn toan đổi dạ,
Nên hư khá nhớ tại nơi Trời.
Chẳng cánh buồm trương rán sức hơi.
Ðừng thấy sang hèn toan đổi dạ,
Nên hư khá nhớ tại nơi Trời.
Thâu
Quít:Quít cam bồng bưởi vốn như lòng,
Ở thế thì lo một chút công.
Giành giựt cho xong mùi mặn lạt,
Chẳng vì chánh giáo của Thiên công.
Ở thế thì lo một chút công.
Giành giựt cho xong mùi mặn lạt,
Chẳng vì chánh giáo của Thiên công.
Thâu
Tới:Tới khi cù đủ gạt vi rồng,
Còn đợi một ngày tiếp sắc phong.
Ðều đặn một lời cần đạo đức,
Ðừng lòng ỷ thế cũng như không.
Còn đợi một ngày tiếp sắc phong.
Ðều đặn một lời cần đạo đức,
Ðừng lòng ỷ thế cũng như không.
Thâu
Miêng:Miêng trường tánh đức giữ cho bền,
Gia nội phải hòa dưới với trên.
Chẳng khá tranh hơn rồi giận thiệt,
Trên đời nào có cách xa Tiên.
Gia nội phải hòa dưới với trên.
Chẳng khá tranh hơn rồi giận thiệt,
Trên đời nào có cách xa Tiên.
Thâu
Trồng:Trồng cau mấy mặt biết lòng cau,
Phải nhớ rằng đời khó chuốt trau.
Nên Thánh nên Hiền chưa thấy mặt,
Gian hùng đầy quận với đầy trào.
Phải nhớ rằng đời khó chuốt trau.
Nên Thánh nên Hiền chưa thấy mặt,
Gian hùng đầy quận với đầy trào.
Thâu
Bàng:Bàn qua thế sự lắm buồn cười,
Nếu cả nhơn sanh phải giống ngươi.
Trời Ðất chẳng cao và chẳng thấp,
Cũng như lỡ cổng với sào bơi.
Nếu cả nhơn sanh phải giống ngươi.
Trời Ðất chẳng cao và chẳng thấp,
Cũng như lỡ cổng với sào bơi.
Thâu
Phẩm:Phẩm hàng cũng nhộn với người đời,
Tính đến chen vai với Ðạo chơi.
Thấy mặt Ta cho vào đứng đó,
Chừng mô thiệt dạ sẽ trao lời.
Tính đến chen vai với Ðạo chơi.
Thấy mặt Ta cho vào đứng đó,
Chừng mô thiệt dạ sẽ trao lời.
Thâu
Hải:Hải hồ đưa bước đã cùng nơi,
Ngặt nỗi chưa hay biết mặt Trời.
Tội lỗi dẫy đầy chưa gỡ đặng,
Vào chi cho nhọc kẻ chào mời.
Ngặt nỗi chưa hay biết mặt Trời.
Tội lỗi dẫy đầy chưa gỡ đặng,
Vào chi cho nhọc kẻ chào mời.
Thâu
Tương:Tương giang mấy lúc gió đưa sầu,
Duyên ở đâu mà phận ở đâu?
Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,
Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.
Duyên ở đâu mà phận ở đâu?
Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,
Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.
Thâu
Niên:Niên cao chưa đủ trí phen đời,
Nương đỡ nhà tan ngó biển khơi.
Ý quyết non sông lo lập nghiệp,
Thương thay chưa buổi đặng nương thời.
Nương đỡ nhà tan ngó biển khơi.
Ý quyết non sông lo lập nghiệp,
Thương thay chưa buổi đặng nương thời.
Thâu
Dọn:Dọn mình cho sạch bớt phàm tâm,
Lẽ chánh tà kia phải xét thầm.
Ðừng bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,
Tự nhiên rõ thấu Ðạo cao thâm.
Lẽ chánh tà kia phải xét thầm.
Ðừng bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,
Tự nhiên rõ thấu Ðạo cao thâm.
Thâu
Sửa:Sửa sang cho vẹn đạo cang thường,
Phải giữ cho toàn tánh thiện lương.
Ðưa rước mặt người hay xảo mị,
Lòng con con biết chớ phô trương.
Phải giữ cho toàn tánh thiện lương.
Ðưa rước mặt người hay xảo mị,
Lòng con con biết chớ phô trương.
Thâu
Két:Két kêu chẳng sánh cú dời thân,
Mấy lúc con không biết kỉnh Thần.
Nạn gởi tai bay vì chẳng hiếu,
Từ đây sám hối tội hoàn lần.
Mấy lúc con không biết kỉnh Thần.
Nạn gởi tai bay vì chẳng hiếu,
Từ đây sám hối tội hoàn lần.
Thâu
Chữ:Chữ rằng Thiên Ðịa có tuần hườn,
Thiệt thiệt rồi ra có hơn hơn.
Ðương buổi thành thì suy lại đến,
Suy rồi có lúc thạnh dồi hơn.
Thiệt thiệt rồi ra có hơn hơn.
Ðương buổi thành thì suy lại đến,
Suy rồi có lúc thạnh dồi hơn.
Thâu
Dần:Dần dà những mảng cuộc đời lo,
Mà chẳng tu tâm lúc dặn dò.
Cha mẹ hiền lương duyên để sẵn,
Ðưa chơn đường Ðạo khá so đo.
Mà chẳng tu tâm lúc dặn dò.
Cha mẹ hiền lương duyên để sẵn,
Ðưa chơn đường Ðạo khá so đo.
Thâu
Kỳ:Kỳ khôi bớt tánh thị khi người,
Người ấy là Trời đó hỡi ngươi.
Nếu đặng lòng người Trời chẳng thuận,
Hòa nhơn đâu khá để nên lời.
Người ấy là Trời đó hỡi ngươi.
Nếu đặng lòng người Trời chẳng thuận,
Hòa nhơn đâu khá để nên lời.
Thâu
Sáo:Sáo sứa việc chi cũng thọc thò,
Chưa hay đặng nhỏ mới gầy to.
Nhỏ nên việc đặng chờ nên lớn,
Ðừng bỏ trôi qua tiếng dặn dò.
Chưa hay đặng nhỏ mới gầy to.
Nhỏ nên việc đặng chờ nên lớn,
Ðừng bỏ trôi qua tiếng dặn dò.
Thâu
Nâu:Nâu sòng khổ hạnh phép gần Tiên,
Như bước ướt chơn mới đến thuyền.
Gắng chí tập lần thân cực nhọc,
Bền gan tu luyện mới là nên.
Như bước ướt chơn mới đến thuyền.
Gắng chí tập lần thân cực nhọc,
Bền gan tu luyện mới là nên.
Thâu
Kỳ:Kỳ ba độ chúng Ðạo hòa khai,
Phải đủ địa linh mới kiệt tài.
Thương đám nhơn sanh Trời trổ mặt,
Trả lời như vậy bất kỳ ai.
Phải đủ địa linh mới kiệt tài.
Thương đám nhơn sanh Trời trổ mặt,
Trả lời như vậy bất kỳ ai.
Thâu
Xanh:Xanh xanh nào có phụ người hiền,
Ðã thấy trọn quyền Ðấng Chí Thiên.
Lo hiệp nghĩa nhơn đồng loại giúp,
Ðừng ham quyền thế một mình riêng.
Ðã thấy trọn quyền Ðấng Chí Thiên.
Lo hiệp nghĩa nhơn đồng loại giúp,
Ðừng ham quyền thế một mình riêng.
Thâu
Bước: Bước giao đưa đẩy đạo nhơn luân,
Mà tánh hiền lương chẳng đặng thuần.
Ðã rõ kiếp tu là kiếp sống,
Phải lo sửa nết lại cho nhuần.
Mà tánh hiền lương chẳng đặng thuần.
Ðã rõ kiếp tu là kiếp sống,
Phải lo sửa nết lại cho nhuần.
Thâu
Thà:Thà theo nẻo chánh xách đèn giùm,
Thà lạy quỉ vương nói phách um.
Chưa rõ chánh tà Trời với quỉ,
Cũng như cơm nước gói nên đùm.
Thà lạy quỉ vương nói phách um.
Chưa rõ chánh tà Trời với quỉ,
Cũng như cơm nước gói nên đùm.
Thâu
Chim:Chim khôn biết kiếm đậu cây lành,
Người thiện phải ngừa đức háo sanh.
Tôn trọng người như Trời với Phật,
Thương yêu hết cả chúng sanh thành.
Người thiện phải ngừa đức háo sanh.
Tôn trọng người như Trời với Phật,
Thương yêu hết cả chúng sanh thành.
Thâu
Ðô:Ðô hội thay cửu nhị nguyên nhân,
Muôn kiếp chưa đem hiệp một lần.
Công cả các con là đáng nhứt,
Vì con Bồ Tát hết cư trần.
Muôn kiếp chưa đem hiệp một lần.
Công cả các con là đáng nhứt,
Vì con Bồ Tát hết cư trần.
Thâu
Kiến:Kiến cơ thì khá biết dùng cơ,
Tu luyện nay xem đã phải giờ.
Một đổi lao thân mà đắc Ðạo,
Thương giùm người kiếp trước bơ thờ.
Tu luyện nay xem đã phải giờ.
Một đổi lao thân mà đắc Ðạo,
Thương giùm người kiếp trước bơ thờ.
Thâu
Lợi:Lợi danh đã đọa biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dễ ngươi.
Hễ muốn lợi danh mang thất đức,
Thờ chung danh lợi hết gần Trời.
Nhiều kẻ nay còn ý dễ ngươi.
Hễ muốn lợi danh mang thất đức,
Thờ chung danh lợi hết gần Trời.
Thâu
Sách:Sách truyện xưa ghi đã lắm điều,
Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
Ðường tu ví bẳng không lo trước,
Ðền điện Lương Vương phải cháy tiêu.
Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
Ðường tu ví bẳng không lo trước,
Ðền điện Lương Vương phải cháy tiêu.
Thâu
Cho:Cho hay Trời Phật chí công bình,
Trước mắt ai ngờ thấy phép linh.
Huyền diệu mũi kim qua chẳng lọt,
Ðừng đừng xảo mị gọi tài tình.
Trước mắt ai ngờ thấy phép linh.
Huyền diệu mũi kim qua chẳng lọt,
Ðừng đừng xảo mị gọi tài tình.
Thâu
Ngọc:Ngọc lành đáng giá biết bao lăm,
Ðể mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.
Ðạo đức mãn đời vùng trở dữ,
Làm cho mất nghiệp mấy muôn năm.
Ðể mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.
Ðạo đức mãn đời vùng trở dữ,
Làm cho mất nghiệp mấy muôn năm.
Thâu
Khanh:Khanh tể chưa hay bẳng hiếu thân,
Nhơn luân trọn Ðạo đáng nên Thần.
Ví xưa biết trước đường tu niệm,
Thì chắc nay đà ngự các lân.
Nhơn luân trọn Ðạo đáng nên Thần.
Ví xưa biết trước đường tu niệm,
Thì chắc nay đà ngự các lân.
Thâu
Keo:Keo sơn chẳng nhớ một lời thề,
Sau trước chẳng dè để đến chê.
Tánh đức ôn nhu tua tập tánh,
Ngừa cơn xuân mãn kế qua hè.
Sau trước chẳng dè để đến chê.
Tánh đức ôn nhu tua tập tánh,
Ngừa cơn xuân mãn kế qua hè.
Thâu
Tâm:Tâm thành thì ắt đặng đời thành,
Danh chẳng cầu mà lại có danh.
Ðặng lúc vinh huê tua giữ phận,
Phòng ngừa kẻ nghịch xúm đua tranh.
Danh chẳng cầu mà lại có danh.
Ðặng lúc vinh huê tua giữ phận,
Phòng ngừa kẻ nghịch xúm đua tranh.
Thâu
Ngăn:Ngăn ngừa cái thói lả lơi tình,
Ðừng động tâm mình thấy sắc xinh.
Ðưa bước vào đường đời ngắn ngủi,
Can chi ràng buộc tội bên mình.
Ðừng động tâm mình thấy sắc xinh.
Ðưa bước vào đường đời ngắn ngủi,
Can chi ràng buộc tội bên mình.
Thâu
Siêng:Siêng lo thì ắt đặng no lòng,
Siêng Ðạo thì đời phải lập công.
Ðừng tưởng mờ hồ vô hỏi thử,
Phạt không thành tín bắt lên đồng.
Siêng Ðạo thì đời phải lập công.
Ðừng tưởng mờ hồ vô hỏi thử,
Phạt không thành tín bắt lên đồng.
Thâu
Thị:Thị thành quen thú ít ưa quê,
Ăn mặn rồi ai cũng muốn chè.
Thế sự những ham sang với trọng,
Quên lo hồn phách chẳng nơi về.
Ăn mặn rồi ai cũng muốn chè.
Thế sự những ham sang với trọng,
Quên lo hồn phách chẳng nơi về.
Thâu
Văn:Văn chương bạc tóc biến thêm nhiều,
Võ lực nửa đời võ phải tiêu.
Ðức hạnh lớn hơn quyền thế vậy,
Phải toan cho rạng đức đừng kiêu.
Võ lực nửa đời võ phải tiêu.
Ðức hạnh lớn hơn quyền thế vậy,
Phải toan cho rạng đức đừng kiêu.
Thâu
Trung, con phải viết thơ cho vợ chồng em Thơ hay, nói rằng Thầy khen nó biết ăn năn, lo trọn Ðạo vậy mới đáng con cái Thầy.
----------------
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Soạn:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Ngày 15-12-1926 (âl. 11-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo (bằng Pháp ngữ).
Mercredi 15 Décembre 1926 (11-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Nhu, chư Tín Hữu,
Chỉnh đàn cho nghiêm đặng Thầy ngự.
Qu'on dire à ces Francaise, qu'ici est un maison de prières, qu'il ne jaut pas qu'ils la considèrent, comme une curiosité.
---ooo---
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
(Marcel martin 135 rue Catinat Sàigòn)
Debout et lis. Toute chose vient à son huere.
Tu as vu et su ce que la plupart de tes compatriotres cherchent à voir et à savoir. Ce n'est que la conclusion des recherches spérites que j'enseigne cette nouvelle doctrine.
N'ai je pas prédit que le spéritisme est une religion d'avenir. Tu as naturellement l'intetion de créer en ce pays une relation morale des deux races Francaise et Annamite appeleés à vivre ensemble par ma volonté dans une communauté de vie et d'interêt.
Tu seras satisfait par une vie d'un homme de bien. Tes voeux seront éxauces. Tu seras plus tard un de mes fervents disciples pour prêcher au monde la paix et la concorde.
L'equipe Francaise seras bientôt ereé.
Tu seras forcé de revenir en France én 1928 pour soutenir cette doctrine au congrès universel.
Tu seras grand et puissant par ma volonté. Au revoir, c'est assez pour toi.
---ooo---
15 Décembre 1926. Tiếp theo: 11-11-Bính Dần.Soạn:
Soạn sành trong trí lớp lang dò,
Coi thử người làm thế ấm no.
Có thất đức chăng thì biết lấy,
Hết cơn tính lợp tới khi mò.
Coi thử người làm thế ấm no.
Có thất đức chăng thì biết lấy,
Hết cơn tính lợp tới khi mò.
Thâu
Về:Về ai một cái nghiệp nhà tan,
Chẳng chịu làm ăn cứ điếm đàng.
Hai nẻo nên hư thì ắt một,
Hễ không nghèo khó chắc vinh sang.
Chẳng chịu làm ăn cứ điếm đàng.
Hai nẻo nên hư thì ắt một,
Hễ không nghèo khó chắc vinh sang.
Thâu
Sĩ:Sĩ mê hoạn lộ sĩ lầm đàng,
Cái bóng dáng đời há phải quan.
Ðức hạnh chẳng như đời Hiền triết,
Chưa lo ích chúng tính thân nhàn.
Cái bóng dáng đời há phải quan.
Ðức hạnh chẳng như đời Hiền triết,
Chưa lo ích chúng tính thân nhàn.
Thâu
Út:Út eo một phận chịu người chê,
Chẳng phải nên quan chẳng phải hề.
Trí hóa ở đời thôi trống lỏng,
Mà con lợi muốn với danh mê.
Chẳng phải nên quan chẳng phải hề.
Trí hóa ở đời thôi trống lỏng,
Mà con lợi muốn với danh mê.
Thâu
Trọng:Trọng thân con khá biết trọng người,
Cái giá trị mình phải có nơi.
Thường kỉnh lấy thân thì kỉnh kẻ,
Chẳng ưa nhiều khóc với nhiều cười.
Cái giá trị mình phải có nơi.
Thường kỉnh lấy thân thì kỉnh kẻ,
Chẳng ưa nhiều khóc với nhiều cười.
Thâu
Trình:Trình ra hai mặt thật hòa ngoan,
Khá nhớ lê quan với phép làng.
Trước mặt luật đời xem rõ thấy,
Thưởng răn phép Phật rõ ngay gian.
Khá nhớ lê quan với phép làng.
Trước mặt luật đời xem rõ thấy,
Thưởng răn phép Phật rõ ngay gian.
Thâu
Thông:Thông minh tánh chất đặng ôn hòa,
Nhớ hiểu Phật Trời chẳng ở xa.
Ngó thử đầu hiên xem thấy dạng,
Hung hăng ác nghiệt kệ người ta.
Nhớ hiểu Phật Trời chẳng ở xa.
Ngó thử đầu hiên xem thấy dạng,
Hung hăng ác nghiệt kệ người ta.
Thâu
Lại:Lại đây Ta hỏi hết lòng thờ,
Hay đến cầu xin hỏi bá vơ.
Thấy rõ lòng ngươi Ta phải đuổi,
Về lo sám hối kịp ngày giờ.
Hay đến cầu xin hỏi bá vơ.
Thấy rõ lòng ngươi Ta phải đuổi,
Về lo sám hối kịp ngày giờ.
Lui.
Tri:Tri cơ mầu nhiệm Ðạo không ngươi,
Ham rượu cho ngon miếng thịt tươi.
Nặng nhẹ mặt cân cơ Tạo kéo,
Bần công khóc khóc lại cười cười.
Ðiểu:Ham rượu cho ngon miếng thịt tươi.
Nặng nhẹ mặt cân cơ Tạo kéo,
Bần công khóc khóc lại cười cười.
Ðiểu mai mấy lúc đẹp duyên hài,
Chít mát là vì bởi tại ai.
Một cảnh đôi quê thân chẳng thuận,
Làm cho sắc nọ phải xa tài.
Chít mát là vì bởi tại ai.
Một cảnh đôi quê thân chẳng thuận,
Làm cho sắc nọ phải xa tài.
Thâu
Hiếu:Hiếu hạnh hườn sanh hiếu hạnh nhi,
Không lo cho vẹn Ðạo tương tùy.
Hắt hiu cứ tưởng trăng cùng gió,
Mà để cho ai đến lỡ thì.
Không lo cho vẹn Ðạo tương tùy.
Hắt hiu cứ tưởng trăng cùng gió,
Mà để cho ai đến lỡ thì.
Thâu
Phú:Phú cho Tạo hóa định thân người,
Oan nghiệt cũng vì bởi tại ngươi.
Nếu quả dữ răn cùng hiền thưởng,
Mới hay minh chánh cái quyền Trời.
Oan nghiệt cũng vì bởi tại ngươi.
Nếu quả dữ răn cùng hiền thưởng,
Mới hay minh chánh cái quyền Trời.
Thâu
Cao:Cao xanh nào có phụ chi con,
Mà chẳng giữ cho đức vẹn còn.
May mắn một thân đôi thế giúp,
Không thì có thuở phước nhà mòn.
Mà chẳng giữ cho đức vẹn còn.
May mắn một thân đôi thế giúp,
Không thì có thuở phước nhà mòn.
Thâu
Hóa:Hóa sanh muôn vật cảnh thiên nhiên,
Ước đặng giành nuôi lấy kẻ hiền.
Hay nỗi cơ cầu cân Tạo hóa,
Phải cho lũ quỉ thử Thần Tiên.
Ước đặng giành nuôi lấy kẻ hiền.
Hay nỗi cơ cầu cân Tạo hóa,
Phải cho lũ quỉ thử Thần Tiên.
Thâu
Trượng:Trượng tài khinh nghĩa đã bao phen,
Làm mất số sang chịu khó hèn.
Ví biết ăn năn đền tội trước,
Sửa răn sửa mạng Lão ban khen.
Làm mất số sang chịu khó hèn.
Ví biết ăn năn đền tội trước,
Sửa răn sửa mạng Lão ban khen.
Thâu
Kế:Kế cao âu rõ phép Trời cao,
May đặng đường Tiên cẳng bước vào.
Lợi mượn danh mua tua khá lánh,
Biết thân biết phận tính dường bao.
May đặng đường Tiên cẳng bước vào.
Lợi mượn danh mua tua khá lánh,
Biết thân biết phận tính dường bao.
Thâu
Ðắc:Ðắc công đắc quả bởi căn xưa,
Nết dữ từ đây gắng phải chừa.
Ðôi mép kéo kia dầu cắt đứt,
Thì là bên đẩy với bên đưa.
Nết dữ từ đây gắng phải chừa.
Ðôi mép kéo kia dầu cắt đứt,
Thì là bên đẩy với bên đưa.
Thâu
Gồng:Gồng gánh hai vai nặng nợ trần,
Có thân âu hẳn khổ cho thân.
Chưa lo buổi sớm lo nồi tối,
Cái kiếp oan khiên khá dứt lần.
Có thân âu hẳn khổ cho thân.
Chưa lo buổi sớm lo nồi tối,
Cái kiếp oan khiên khá dứt lần.
Thâu
Nam:Nam nhi phải gắng chí bền lòng,
Muôn sự dầu nên cậy chút công.
Bao thuở nằm nhà cơm tới miệng,
Của công thường thế phải cân đồng.
Muôn sự dầu nên cậy chút công.
Bao thuở nằm nhà cơm tới miệng,
Của công thường thế phải cân đồng.
Thâu
Trình:Trình môn đã muốn ít câu văn,
Chải chuốt mép môi cũng gọi rằng.
Trí thức ít ai đem thế phục,
Từ khi tuổi trẻ biết làm nhân.
Chải chuốt mép môi cũng gọi rằng.
Trí thức ít ai đem thế phục,
Từ khi tuổi trẻ biết làm nhân.
Thâu
Ðạt:Ðạt đầu công có gã Triệu Vân,
Tá Thục trong khi lớn sức Thần.
Chước thế thiếu văn vùa giúp võ,
Phàm thân chịu nhọc lúc Tam phân.
Tá Thục trong khi lớn sức Thần.
Chước thế thiếu văn vùa giúp võ,
Phàm thân chịu nhọc lúc Tam phân.
Thâu
Ngoạt:Ngoạt nhựt chi qua khổ chẳng qua,
Phải cam thủ phận cải lòng tà.
Học vui với thú phong trần khách,
Ham mến thế gian ít kẻ hòa.
Phải cam thủ phận cải lòng tà.
Học vui với thú phong trần khách,
Ham mến thế gian ít kẻ hòa.
Thâu
Mười trăng có lẽ phận không yên,
Năm tới họa may hết lúc phiền.
Cầu biết kỉnh Tiên cùng lễ Phật,
Thì là mạng số đặng hoàn viên.
Năm tới họa may hết lúc phiền.
Cầu biết kỉnh Tiên cùng lễ Phật,
Thì là mạng số đặng hoàn viên.
Nam Nữ Thầy thâu hết. Cần Giuộc hữu sự.
-------------------
Ngày 17-12-1926 (âl. 13-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo (bằng Pháp ngữ).
Vendredi 17 Décembre 1926 (13-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Môn Sanh,
Monsieur Dauplay est prité d'attendre la venue du Divin Maitre.
---ooo---
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Dieu tout puissant qui vient sous la nom de Cao Dai pour enseigner la vérité en Annam.
Dauplay: Debout et lis.
Je tiens à ta dire que rien ne se creé et néxiste sur globe sans ma volonté. De pauvres esprits prétendent qu'ils sont dans le secret de Dieu. Or, je ne donne à nul humain ici. Bas d'en jaire la révélation. Pour venir à moi, il faut des prières. Je ne néglise pas à me manijestér quand ces prières sont sincères. Il suffit, pour vous convaincre que je suis bien Jéhovah des Hébreux le Dieu des armmés des israclites, le Dieu inconnu des Juifs et le vrai Père de Jésus Christ, de me prier par ce prête nom Cao Dai pour que vos voeux soient exaucés. Tu viens à moi avec un sentiment sincère pour bien jaire aux peuples soumis qui te sont confiés. Je te prie alors de propager cette doctrine à tous tés protégés. C'est la seul qui maintient l'humannité dans l'amour des créatures et vous apporte une paix durable.
Sibon:Thành tín nhứt tâm cũng đáng khen,
Không sang tột bực cũng không hèn.
Nêu danh trí sĩ nhà quan nghiệp,
Có thuở ơn ban nghiệp sách đèn.
Không sang tột bực cũng không hèn.
Nêu danh trí sĩ nhà quan nghiệp,
Có thuở ơn ban nghiệp sách đèn.
Thâu
Châu Thiết:Nhà ân hậu bực tài danh,
Buồn lúc phong quang chẳng đắc thành.
Khanh tể nối đời khanh tể mãi,
Một điều khuyết Ðạo chẳng đua tranh.
Buồn lúc phong quang chẳng đắc thành.
Khanh tể nối đời khanh tể mãi,
Một điều khuyết Ðạo chẳng đua tranh.
Thâu
Dauplay:Hoàng ngọc điệp của trâm anh,
Tập tánh ôn phu đã tánh thành.
Hiền đức nên trang ngôi điện các,
Phải ..... sửa vững lúc nghiêng thành.
Sô:Tập tánh ôn phu đã tánh thành.
Hiền đức nên trang ngôi điện các,
Phải ..... sửa vững lúc nghiêng thành.
Sô sa ít chịu vải bô ưa,
Tùy thế công danh cũng đã thừa.
Lừa lọc trăm mưu nên nghiệp cả,
Bởi không dua nịnh chúng chê thừa.
Tiệp:Tùy thế công danh cũng đã thừa.
Lừa lọc trăm mưu nên nghiệp cả,
Bởi không dua nịnh chúng chê thừa.
Tiệp theo thời thế tánh hiền lương,
Cứ giữ ôn nhu chịu thủ thường.
Nếu biết mình nên là bởi đức,
Dưới quyền trẻ dại khá nên thương.
Cứ giữ ôn nhu chịu thủ thường.
Nếu biết mình nên là bởi đức,
Dưới quyền trẻ dại khá nên thương.
May thay nên lúc thủ ngao đầu,
Ðạo đức của con ý vị sâu.
Có thuở mạng Trời đưa sắc đến,
Nên giềng Ðạo cả chẳng bao lâu.
Ðạo đức của con ý vị sâu.
Có thuở mạng Trời đưa sắc đến,
Nên giềng Ðạo cả chẳng bao lâu.
Lâm Thị Ái Nữ, khá nói Ðạo cho em nghe con.
Danh Chúc:Phật tâm ai hiểu cái người nầy,
Biết đặng cùng chăng chỉ một Thầy.
Ðừng sợ nghèo hèn lo đạo hạnh,
Của dư có kẻ đến dâng hoài.
Biết đặng cùng chăng chỉ một Thầy.
Ðừng sợ nghèo hèn lo đạo hạnh,
Của dư có kẻ đến dâng hoài.
Thượng.
Quyền:Quyền con cũng lớn cửa nhà Thầy,
Những việc rầu buồn khá bỏ khuây.
Ðặng lớn thuyền rồi đừng tính chở,
Tự nhiên có kẻ đổ đông đầy.
Dự:Những việc rầu buồn khá bỏ khuây.
Ðặng lớn thuyền rồi đừng tính chở,
Tự nhiên có kẻ đổ đông đầy.
Dự vào đường Ðạo hạnh tua trau,
Ðừng đợi người kêu mới tỉnh màu.
Phương tục đã quen theo thục cách,
Ðến đền Tiên Phật dễ đâu nào.
Tâm:Ðừng đợi người kêu mới tỉnh màu.
Phương tục đã quen theo thục cách,
Ðến đền Tiên Phật dễ đâu nào.
Tâm thành có thuở nghiệp nhà nên,
Ðạo đức khuyên con cứ giữ bền.
Hễ đặng bữa cày buông bữa giỗ,
Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.
Trà:Ðạo đức khuyên con cứ giữ bền.
Hễ đặng bữa cày buông bữa giỗ,
Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.
Trà đình ai để nợ cho con,
Vì nghĩa mà thân phải mỏi mòn.
Ðừng trách Trời già không mắt thấy,
Dầu thay cơ Tạo cũng Thầy còn.
Dưỡng:Vì nghĩa mà thân phải mỏi mòn.
Ðừng trách Trời già không mắt thấy,
Dầu thay cơ Tạo cũng Thầy còn.
Dưỡng sinh đã vẹn nợ đôi bên,
Có thiếu thì con cũng trả liền.
Phủi sạch bụi hồng cho rảnh kiếp,
Thân còn chẳng kể, kể chi duyên.
Dậy:Có thiếu thì con cũng trả liền.
Phủi sạch bụi hồng cho rảnh kiếp,
Thân còn chẳng kể, kể chi duyên.
Dậy đục lóng trong trách lũ chài,
Ðã an thân phận phá vì ai.
Tẻ vui đã hưởng mùi dưa muối,
Nơi thế dường như khách lạc loài.
Ðã an thân phận phá vì ai.
Tẻ vui đã hưởng mùi dưa muối,
Nơi thế dường như khách lạc loài.
Thâu
Cật:Cật vấn cho ra lẽ ức oan,
Thôi con bớt thảm lụy tuôn tràn.
Mắt Trời đã thấy cơn nhằn nhọc,
Bởi kiếp căn xưa phải chịu mang.
Thôi con bớt thảm lụy tuôn tràn.
Mắt Trời đã thấy cơn nhằn nhọc,
Bởi kiếp căn xưa phải chịu mang.
Thâu
Duyên:Duyên đằng thuận gió đã êm thuyền,
Bốn biển năm hồ đã đậu yên.
Khá tưởng chút tình lo nỗi hiếu,
Trả xong nhơn nghĩa Phật tâm truyền.
Bốn biển năm hồ đã đậu yên.
Khá tưởng chút tình lo nỗi hiếu,
Trả xong nhơn nghĩa Phật tâm truyền.
Thâu
Tiếng:Tiếng đức còn hơn lẽ tiếng tài,
Mấy trang hằng giữ một lòng hay.
Biết người biết mặt lòng đâu biết,
Ðừng cứ đeo đai nỗi sắc tài.
Mấy trang hằng giữ một lòng hay.
Biết người biết mặt lòng đâu biết,
Ðừng cứ đeo đai nỗi sắc tài.
Thâu
Lục:Lục xem các sách Thánh Hiền xưa,
Ðều đặn lành tu dữ ấy chừa.
Ðã lóng bên tai Tiên trước mặt,
Kim Tiên Huệ Mạng thấy hay chưa.
Ðều đặn lành tu dữ ấy chừa.
Ðã lóng bên tai Tiên trước mặt,
Kim Tiên Huệ Mạng thấy hay chưa.
Thâu
Ðầy:Ðầy túi còn lo kiếm chứa thêm,
Cái tham thế sự thấy thì thèm.
Ưa dằn đồng dưới trên năm bảy,
Ðể của phù vân đến cũ mèm.
Cái tham thế sự thấy thì thèm.
Ưa dằn đồng dưới trên năm bảy,
Ðể của phù vân đến cũ mèm.
Thâu
Quân:Quân trung ai rõ nữ anh hùng,
Lập nghiệp cho người đến hưởng chung.
Ví bẳng kẻ sau noi đứa trước,
Thì đời phúc hậu nối không cùng.
Lập nghiệp cho người đến hưởng chung.
Ví bẳng kẻ sau noi đứa trước,
Thì đời phúc hậu nối không cùng.
Thâu
So:So đời lại nghĩ thảm cho đời,
Nhỏ biết tu mà lớn biết chơi.
Trẻ dại đôi khi lo bực trí,
Nghĩ càng phát giận lại buồn cười.
Nhỏ biết tu mà lớn biết chơi.
Trẻ dại đôi khi lo bực trí,
Nghĩ càng phát giận lại buồn cười.
Cả bên Nam đều thâu.
---------------
Ngày 18-12-1926 (âl. 14-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo & Ðức Thái Bạch dạy về việc lập Tân Luật.
Samedi 18 Décembre 1926 (14-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Ô trược lắm, ô trược lắm .....
Sinh Thanh, Hiền Hữu xuất ngoại kẻ ẩm tửu.
Chỉnh đàn lại cho tinh khiết đặng Thầy ngự.
---ooo---
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Các con, chư Nhu thượng sớ. Bình thân.
Tiền:Tiền căn đã có sẵn công tu,
Biết đạo lý cao khá vận trù.
Kế thế xây thêm nền đạo đức,
Xen vào phẩm cũ khá cần cù.
Muôn:Biết đạo lý cao khá vận trù.
Kế thế xây thêm nền đạo đức,
Xen vào phẩm cũ khá cần cù.
Muôn năm ít kẻ để danh nêu,
Hết chí cứ lo có một điều.
Vợ tốt rượu ngon và thịt béo,
Ham ưa vật chất chẳng hề kiêng.
Nguyễn Quốc Biểu:Hết chí cứ lo có một điều.
Vợ tốt rượu ngon và thịt béo,
Ham ưa vật chất chẳng hề kiêng.
Hiến sách cường tranh khổ tụ quần,
Ái ngôi hám vị thị phi quân.
Ðồng tâm hựu chí mưu mô hiệp,
Vô đạo nan tri sự bất phân.
Ái ngôi hám vị thị phi quân.
Ðồng tâm hựu chí mưu mô hiệp,
Vô đạo nan tri sự bất phân.
Thâu
Thiên địa tối linh sanh Thánh chất,
Quân vương háo nghĩa tác Hiền thần.
Hữu công trì chí Thiên cơ toán,
Mạc nại lao lung trạch hảo nhân.
Quân vương háo nghĩa tác Hiền thần.
Hữu công trì chí Thiên cơ toán,
Mạc nại lao lung trạch hảo nhân.
Thâu
Trần Phát Ðại:Ðạo tâm phải biết đạo làm người,
Ðời đó là ngươi đó hỡi ngươi.
Niên kỷ chưa qua cơn hoạn đến,
Mà che miệng lén nhẫn cười đời.
Ðời đó là ngươi đó hỡi ngươi.
Niên kỷ chưa qua cơn hoạn đến,
Mà che miệng lén nhẫn cười đời.
Lui.
Võ Văn Sanh:Sanh nhằm buổi khổ khá lo lường,
Biết phận mình hèn chúng mới thương.
Láo táo đừng không qua kẻ dại,
Phải khinh mình trước kẻ ngoài nhường.
Biết phận mình hèn chúng mới thương.
Láo táo đừng không qua kẻ dại,
Phải khinh mình trước kẻ ngoài nhường.
Thâu
Vân:Vân đài có thuở đặng nêu tên,
Nghèo khổ hiền lương giữ dạ bền.
Chưa phải thời lai con ẩn nhẫn,
Dầu sao làng xóm cũng ngồi trên.
Nghèo khổ hiền lương giữ dạ bền.
Chưa phải thời lai con ẩn nhẫn,
Dầu sao làng xóm cũng ngồi trên.
Thâu
Phan Văn Vịnh:Vịnh theo thời thế ở theo người,
Ðừng tưởng ở đời cứ việc chơi.
Mình ích chi cho nhơn loại đỡ,
Ðừng ngồi toại hưởng lộc nhà Trời.
Ðừng tưởng ở đời cứ việc chơi.
Mình ích chi cho nhơn loại đỡ,
Ðừng ngồi toại hưởng lộc nhà Trời.
Lui.
Nguyễn Văn Bời:Bời lời lòng những luống lo toan,
Lo đến Tổ tông chốn suối vàng.
Lo vợ lo con lo sự nghiệp,
Lo đâu lo đó Ðạo không màng.
Lo đến Tổ tông chốn suối vàng.
Lo vợ lo con lo sự nghiệp,
Lo đâu lo đó Ðạo không màng.
Thâu
Trần Văn Vẽ:Vẽ mày khéo đến hỏi xin tu,
Vợ chịu sao kham với vợ ngu.
Hỏi thử ăn chay thì ngán miệng,
Ðeo theo thịt rượu với bôn xu.
Vợ chịu sao kham với vợ ngu.
Hỏi thử ăn chay thì ngán miệng,
Ðeo theo thịt rượu với bôn xu.
Lui.
Hạnh:Hạnh đức làm gương dắt lũ sau,
Một nhà đạo đức khá thương nhau.
Ðã nên người trước đời trông cậy,
Gắng sửa nhà tranh hóa động đào.
Một nhà đạo đức khá thương nhau.
Ðã nên người trước đời trông cậy,
Gắng sửa nhà tranh hóa động đào.
Thâu. Sau Thầy trọng dụng.
Bùi Văn Kinh:Kinh sách cha ông để lại đâu,
Mà con chữ viết chẳng nên câu.
Một nhà hiền đức ngày mòn mỏi,
Sao chẳng đường tu đến nẻo cầu.
Mà con chữ viết chẳng nên câu.
Một nhà hiền đức ngày mòn mỏi,
Sao chẳng đường tu đến nẻo cầu.
Thâu
Trần Thị Mai:Mai xưa trổ nhụy đã hai lần,
Tại ái nữ không biết giữ thân.
Có phẩm phải lo trân trọng phẩm,
Quyền xô thành ngã dễ bao lần.
Tại ái nữ không biết giữ thân.
Có phẩm phải lo trân trọng phẩm,
Quyền xô thành ngã dễ bao lần.
Thâu
Huỳnh Xiếu Chuyên:Chuyên gìn Tứ đức với Tam tùng,
Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.
Ðạo đức là nền làm phẩm cách,
Mượn nhành dương tịnh lửa sôi lòng.
Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.
Ðạo đức là nền làm phẩm cách,
Mượn nhành dương tịnh lửa sôi lòng.
Thâu
Bùi Thị Sùng:Sùng tu nên nết ấy là danh,
Cái hạnh trau tria mới đặng thành.
Ðã hiểu lẽ hơn hơn lẽ thiệt,
Thì toan bỏ dữ bỏ cho đành.
Cái hạnh trau tria mới đặng thành.
Ðã hiểu lẽ hơn hơn lẽ thiệt,
Thì toan bỏ dữ bỏ cho đành.
Thâu
Xiếu Ngó:Xiếu Ngó mà nên bởi có người,
Dắt dìu rồi lại dạy thông đời.
Lửa hương ví bẳng ngày sao đượm,
Phải nhớ công ơn của Ðất Trời.
Dắt dìu rồi lại dạy thông đời.
Lửa hương ví bẳng ngày sao đượm,
Phải nhớ công ơn của Ðất Trời.
Thâu
Trương Thị Nhờ:Nhờ âm chất đủ mẹ cha xưa,
Nên hưởng giàu sang cũng đã thừa.
Biết Ðạo con tua gìn tánh đức,
Trong cơn nắng hạn khá là mưa.
Nên hưởng giàu sang cũng đã thừa.
Biết Ðạo con tua gìn tánh đức,
Trong cơn nắng hạn khá là mưa.
Thâu
Khá phổ độ con cái Trung Huê của Thầy nghe.
Sĩ hổ con đừng thẹn với đời,
Thầy đây còn phải chịu mang lời.
Nên hư sang trọng nhờ căn trước,
Dầu phải chi chi cũng có Trời.
Thầy đây còn phải chịu mang lời.
Nên hư sang trọng nhờ căn trước,
Dầu phải chi chi cũng có Trời.
Thâu
Hổ thâu, khá phổ độ Nữ phái, Thầy sẽ trọng dụng.
Ðỗ Thị Du:Du hành là kẻ bỏ đường tu,
Con sáng đừng nghe phỉnh lù mù.
Thiệt thiệt hư hư đời dễ thấu,
Có khi thấy mực gọi là chu.
Con sáng đừng nghe phỉnh lù mù.
Thiệt thiệt hư hư đời dễ thấu,
Có khi thấy mực gọi là chu.
Thâu
---ooo---
Samedi 18 Décembre 1926 (14-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe dạy:
Phải viết thơ cho các Thánh nói rằng: "Buổi lập Luật phải ngưng sự phổ độ lại đôi chút" lo cho xong Tân Luật thì mới truyền bá chơn Ðạo rõ lý hơn.
Vậy ngày Ðại Lễ Thánh Giáo Giáng Sanh phải có mặt tại đây cho đủ và nạp luật cho kịp ngày ấy. Làm lễ xong qua ngày kế thì Chư Thánh mặc Ðại phục vào điện bái rồi Hiền Hữu biểu sắp ghế vòng theo Ðại điện. Hiền Hữu và Ngọc Lịch Nguyệt lên tọa bửu vị, rồi theo chức phận Chư Thánh ngồi vòng hai bên như lúc Hiền Hữu còn tại Thượng Nghị Viện đặng cải luật đó vậy.
Hiền Hữu Chưởng Quản làm chủ Hội, mỗi vị Thánh đều đặng quyền cải lẽ nghe à....
Phải giữ phép kẻ trước người sau, tùy phiên nhau cho có lễ: Phái Thái trước, phái Ngọc giữa, phái Thượng chót.
Phải viết thơ cho Tương và Trang nạp luật cho kịp một lượt với Thơ nghe à....
Thượng Kỳ Thanh bị sụt chức làm Giáo Hữu, như không tuân lịnh xuất ngoại.
Thầy cho làm lễ Cầu siêu cho cha Mục Thanh.
----------------
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Tái Cầu:
Dimanche 19 Décembre 1926 (Rằm tháng 11 năm Bính Dần).
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Trần Văn ...:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Một là Giáng Tâm.
Hai là Mê.
Ba là Giáng Thủ.
Tây phương gọi Intuitif, Semi-intuitif et Automatique.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
Ngày 19-12-1926 (âl. 15-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo & Về sự chuyển kiếp của con người và của tà quái. Nếu không tu hành thì không khỏi luân hồi.
Dimanche 19 Décembre 1926 (Rằm tháng 11 Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Chúng Sanh,
Phân ban. Ngọc Lịch Nguyệt, Lão khen Hiền Hữu hành lễ.
Chỉnh đàn Thầy ngự.
---ooo---NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Thơ xin in 2000 Thánh ngôn, 4000 thi văn.
Thầy khen con. Ðặng.
Hương Thanh xin dịch bộ Tam Thiên Thế Giái.
Kinh điển dịch đặng bộ nào hữu ích bộ nấy. Thầy cho con song phải đem đến Chưởng Pháp cầu lịnh nghe con.
Thơ xin dịch Minh Thánh Kinh.
Cũng phải đem nạp cho Chưởng Pháp phê chuẩn.
Tín Nữ cầu Ðạo:
Nguyễn Thị Yến:Yến anh phải lỡ lứa khi xưa,
Vì chẳng tu tâm tội cũ chừa.
Nếu trẻ biết lo trau tánh đức,
Vào đường tu niệm khá răn chừa.
Vì chẳng tu tâm tội cũ chừa.
Nếu trẻ biết lo trau tánh đức,
Vào đường tu niệm khá răn chừa.
Thâu
Nguyễn Thị Sa:
Sa vào đường tội khó nên hiền,
Cải ác xưa từng chiếm bực Tiên.
Hối hận trăm năm trong một buổi,
Thành tâm Thầy cũng nạp lời nguyền.
Cải ác xưa từng chiếm bực Tiên.
Hối hận trăm năm trong một buổi,
Thành tâm Thầy cũng nạp lời nguyền.
Thâu
Châu Thị Huê:Huê đào từ trở sắc tươi cười,
Chẳng giữ gìn duyên kẻ một nơi.
Thương chẳng ai cầu thương hóa ghét,
Lời hay chẳng nạp, chẳng nên lời.
Chẳng giữ gìn duyên kẻ một nơi.
Thương chẳng ai cầu thương hóa ghét,
Lời hay chẳng nạp, chẳng nên lời.
Thâu
Lê Thị Ngần:Ngần ngại từ đây hết hỏi đon,
Thân mình dầu tuyệt Ðạo không mòn.
Phải duyên kêu khách ngoài ngàn dặm,
Lỡ hội đừng mong buổi cúi lòn.
Thân mình dầu tuyệt Ðạo không mòn.
Phải duyên kêu khách ngoài ngàn dặm,
Lỡ hội đừng mong buổi cúi lòn.
Thâu
Ðiểm:Ðiểm viên một khắc hết hồi mơ,
Tưởng tượng chi chi tánh dật dờ.
Nửa chiếu không rồi thân phận tục,
Ðường Tiên ngần ngại bước bơ thờ.
Tưởng tượng chi chi tánh dật dờ.
Nửa chiếu không rồi thân phận tục,
Ðường Tiên ngần ngại bước bơ thờ.
Thâu
Vẹo:Vẹo trăm nết hạnh kiếp thơ đào,
Ðừng để thường tình chịu sóng xao.
Lỡ lối tang thương thôi phải phận,
Cũng căn cũng kiếp buổi xưa sau.
Ðừng để thường tình chịu sóng xao.
Lỡ lối tang thương thôi phải phận,
Cũng căn cũng kiếp buổi xưa sau.
Thâu
Phạm Thị Ðiều:Ðiều đình để bước nguyệt canh thâu,
Nét bóng phù du đã đủ màu.
Lừa lọc nỗi thân cùng nỗi nợ,
Tưởng tình âu yếm dạ thêm đau.
Nét bóng phù du đã đủ màu.
Lừa lọc nỗi thân cùng nỗi nợ,
Tưởng tình âu yếm dạ thêm đau.
Thâu
Hà Thị Nho:Nho nhã con tua tập tánh thành,
Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
Một câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.
Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
Một câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.
Thâu
Trần Thị Rạng:Rạng mình một kẻ biết khôn đời,
Ta hỏi cùng ngươi quả thiệt lời.
Tánh dữ không trừ Trời với Phật,
Than mình nhiều lúc hổn đưa hời.
Ta hỏi cùng ngươi quả thiệt lời.
Tánh dữ không trừ Trời với Phật,
Than mình nhiều lúc hổn đưa hời.
Thâu
Phan Thị Thôi:Thôi đừng đeo đắng cái tình đời,
Biết tuổi mình xưa khá lánh nơi.
Mưa thảm nắng sầu dày dẽ phận,
Toan đường đạo đức đến cùng Trời.
Biết tuổi mình xưa khá lánh nơi.
Mưa thảm nắng sầu dày dẽ phận,
Toan đường đạo đức đến cùng Trời.
Thâu
Trần Thị ...:Gương lành trẻ khá giữ mình hoài,
Làm khách Tiên phong biết Thiên Thai.
Lợi hám danh ưa tua lánh chốn,
So đo sang trọng với Bồng Lai.
Làm khách Tiên phong biết Thiên Thai.
Lợi hám danh ưa tua lánh chốn,
So đo sang trọng với Bồng Lai.
Thâu
Lịch, con phải kêu những chư Nhu còn lại hầu bên Nữ phái. Bính xin in kinh tạm và Thánh Tượng chữ "Bài vị". Ðặng con. Thầy dạy Ðạo.
---ooo---Tái Cầu:
Dimanche 19 Décembre 1926 (Rằm tháng 11 năm Bính Dần).
Thầy cho chư Môn Ðệ miễn lễ. Bài ban.... Các con nghe.
Một sự các con chưa hề biết đến đặng hiểu Ðạo là quí trọng dường nào, lo tu tâm dưỡng tánh.
Các con đã sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não cũng tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy. Thầy hỏi các con chết, rồi các con ra thế nào? Các con đi đâu?
Chẳng một đứa nào hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy.
Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi, từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.
Nhơn phẩm nơi thế gian nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng. Ðứng bực Ðế Vương nơi trái địa cầu nầy chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẵng cấp dường ấy. Cái quý trọng mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Ðệ nhứt cầu, Tam Thiên Thế Giái. Qua khỏi Tam Thiên Thế Giái thì mới đến Tứ Ðại Bộ Châu, qua Tứ Ðại Bộ Châu mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên, vào Tam Thập Lục Thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng đến Bạch Ngọc Kinh là nơi đạo Phật gọi là Niết Bàn đó vậy.
Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con có nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị. Còn phẩm trật Quỉ vị cũng như thế ấy, nó cũng noi chước Thiên cung mà lập thành Quỉ vị, cũng đủ các ngôi các phẩm đặng đày đọa các con, hành hài các con, xử trị các con.
Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con, mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó. Thầy đã thường nói: Hai đầu cân không song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý, luật công bình thiêng liêng buộc phải vậy, Thầy lắm phen phải bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.
Thầy đã chỉ rõ hai nẻo tà chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi khỏi lầm lạc.... Các con hiểu rằng trong Tam Thiên Thế Giái còn có quỉ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là Thất Thập Nhị Ðịa nầy sao không có cho đặng.
Hại thay, lũ quỉ lại là phần nhiều nó bày bố ra mỗi nơi một giả cuộc mà dỗ dành các con. Vì vậy Thầy đã nói tiên tri rằng: Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hằng xúi biểu nó cắn xé các con, song trước Thầy cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con. Ấy vậy đạo đức các con là phương pháp khử trừ quỉ mị, lại cũng là phương dìu dắt các con trở lại cùng Thầy. Các con không Ðạo thì là tôi tớ quỉ mị. Thầy đã nói: Ðạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắt cho các con leo tới phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn Thầy nữa.
Vậy Thầy lại dặn các con, nếu kẻ không tu làm đủ phận người, công bình chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa, thì biết chừng nào mới hội hiệp cùng Thầy. Nên Thầy cho một quyền rộng rải cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế Giái nếu biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở về cùng Thầy đặng. Mà hại thay, mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc thấy đặng kẻ ấy. Vậy Thầy dặn: Ðạo là nơi các con nên quí trọng đó vậy.
Cả chư Thiện Nam hầu Ðàn ngày nay Thầy lấy lòng từ bi mà thâu hết.
------------------Ngày 20-12-1926 (âl. 16-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Lundi 20 Décembre 1926 (16-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thơ Thanh Hiền Hữu, Thánh ngôn in ra chỉ để phát cho trong mỗi Thánh Thất và Chức Sắc Thiên Phong giáo Ðạo mà thôi.
Hiền Hữu lo lập Luật, còn Thượng Trung Nhựt?
Chỉnh đàn, Thầy ngự.
---ooo---NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Các con, đáng kiếp cho mấy con nghé, phải có hình phạt như vậy các con mới biết sợ, chớ dỗ dành ngon ngọt các con không sợ, còn Thái Bạch hăm trừng thì các con đều kinh khủng.... Khi Thầy và Thái Bạch khác nhau xa lắm con há?
Nhiều đứa sẽ còn bị Thái Bạch nữa, mấy đứa nhỏ rán giữ hạnh không thì bị xuất ngoại mà chớ....
Chư Nhu cầu Ðạo....
Nỉ đỏ chỉ vàng con.
Trung Nhựt vì đó phải bị phạt, chẳng một điều các con tuân theo Thánh ý. Thầy biểu điều gì các con cũng làm nghịch. Vậy thì Ðạo mới thế nào. Con phải nói lại với nó khi nó đến, phải cầu cơ cho Thái Bạch dạy dỗ nghe à. Thượng sớ.
Nguyễn Văn Lạc:Lạc hoan chưa phải buổi cho mình,
Nghĩa mặn tình nồng chớ dễ khinh.
Nửa mái tóc tơ còn buộc trói,
Ðem mình toan gởi cửa anh linh.
Nghĩa mặn tình nồng chớ dễ khinh.
Nửa mái tóc tơ còn buộc trói,
Ðem mình toan gởi cửa anh linh.
Thâu
Lương Văn Hòa:Hòa vinh hòa khổ cũng chung nhau,
Ai xúi đem lê đến đổi đào.
Nương cảnh cũ nép cây đợi thỏ,
Ngọn nguồn ai rõ nỗi âm hao.
Ai xúi đem lê đến đổi đào.
Nương cảnh cũ nép cây đợi thỏ,
Ngọn nguồn ai rõ nỗi âm hao.
Thâu
Nguyễn Văn Ngãi:Ngãi nhân cam phận chịu bần hàn,
Mình biết trọng mình mặc kẻ sang.
Mấy ngón tri âm thưa thớt bạn,
Mà trong ngựa bạc cửa sơn vàng.
Mình biết trọng mình mặc kẻ sang.
Mấy ngón tri âm thưa thớt bạn,
Mà trong ngựa bạc cửa sơn vàng.
Thâu
Trần Văn Khuyên:Khuyên về để chữ lại thơ đình,
Chừng đến ngựa mời đặng hiển vinh.
Ðào quế sum suê xuân vẽ sắc,
Hết cơn phàm tục bước Thiên đình.
Chừng đến ngựa mời đặng hiển vinh.
Ðào quế sum suê xuân vẽ sắc,
Hết cơn phàm tục bước Thiên đình.
Thâu
Lê Văn Ðiều:Ðiều hay lẽ phải khá gìn lời,
Một điểm đức dồi một vẻ tươi.
Con cái muốn nên đường hiếu hạnh,
Con tua trước biết sợ oai Trời.
Một điểm đức dồi một vẻ tươi.
Con cái muốn nên đường hiếu hạnh,
Con tua trước biết sợ oai Trời.
Thâu
Trần Văn ...:Sáng đèn cánh bướm phải tiêu tàn,
Phải biết gần quan mới hiểu quan.
Thinh thế mượn con tua trả lại,
Thủ chơn danh noi Ðạo tìm đàng.
Phải biết gần quan mới hiểu quan.
Thinh thế mượn con tua trả lại,
Thủ chơn danh noi Ðạo tìm đàng.
Thâu
Nguyễn Văn ...:Thảo chi sang lượm với danh mua,
Chẳng hiểu chánh tâm cứ nói đùa.
Ðứa nịnh năng gần người chánh lánh,
Phải ngươi sanh dưới phép nhà vua.
Chẳng hiểu chánh tâm cứ nói đùa.
Ðứa nịnh năng gần người chánh lánh,
Phải ngươi sanh dưới phép nhà vua.
Lui.
La Văn ...:Lựa nên một giống máu anh hùng,
Chẳng phải phen người đủ lược thao.
Chính giữa ba quân không lãng trí,
Việc nhà lại chịu nỗi tầm phào.
Chẳng phải phen người đủ lược thao.
Chính giữa ba quân không lãng trí,
Việc nhà lại chịu nỗi tầm phào.
Thâu
Trần Văn ...:
Thình lòng ẩn nhẫn đợi đôi năm,
Con khá từ đây biết kiệm cần.
Ðại phú do Thiên tuy đã vậy,
Ðủ no không thiếu bởi nên cần.
Con khá từ đây biết kiệm cần.
Ðại phú do Thiên tuy đã vậy,
Ðủ no không thiếu bởi nên cần.
Thâu
Ðá:Ðá thử vàng kia rõ tuổi cao,
Phải nên danh cả chớ tự cao.
Ðường quan lắm nỗi điều gay trở,
Chước lánh nhàn tìm mới chí cao.
Phải nên danh cả chớ tự cao.
Ðường quan lắm nỗi điều gay trở,
Chước lánh nhàn tìm mới chí cao.
Thâu
Mùi:Mùi chua ngọt bả sang hèn,
Ðời chác một điều dụ tiếng khen.
Trăm tuổi áo là còn gắng điếu,
Công trình cửa phạm chả hề quen.
Ðời chác một điều dụ tiếng khen.
Trăm tuổi áo là còn gắng điếu,
Công trình cửa phạm chả hề quen.
Thâu
Võ Bá ...:Nhạc hay một giọng phải đồng hòa,
Muốn mạnh có người với có ta.
Ðừng ỷ mình hay toan gánh vác,
Xưa nay tiếng xóm chả không nhà.
Muốn mạnh có người với có ta.
Ðừng ỷ mình hay toan gánh vác,
Xưa nay tiếng xóm chả không nhà.
Thâu
Cẩn:Cẩn ngôn cẩn hạnh khá gìn hoài,
Ðừng phụ ai cũng chẳng khinh ai.
Ðóng cửa dạy nhà nên đạo nghĩa,
Chẳng vui phong tặng cũng vui tài.
Ðừng phụ ai cũng chẳng khinh ai.
Ðóng cửa dạy nhà nên đạo nghĩa,
Chẳng vui phong tặng cũng vui tài.
Thâu
Trị:Trị đời con thử nghĩ cho đời,
Ác trọng mình làm cũng gọi khinh.
Kẻ mất lưỡi cày hô mất cán,
Thành ngôn là biết chánh ngôn thình.
Ác trọng mình làm cũng gọi khinh.
Kẻ mất lưỡi cày hô mất cán,
Thành ngôn là biết chánh ngôn thình.
Thâu
Chác:Chác điều buồn thảm dẫy đầy lòng,
Hết kiếp phận mình cứ long đong.
Dựa cột cột xiêu nhà sập nóc,
Kham tai cái kiếp cửa nhà không?
Hết kiếp phận mình cứ long đong.
Dựa cột cột xiêu nhà sập nóc,
Kham tai cái kiếp cửa nhà không?
Thâu
Cả Nữ phái thảy đều thâu.
---------------------Ngày 21-12-1926 (âl. 17-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mardi 21 Décembre 1926 (17-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe Lão dặn phạt há. Nếu chẳng vậy thì quyền Lão để trị ai. Không một điều nào Thầy dặn Hiền Hữu tuân y theo. Thử đọc Thánh ngôn lại thì là cử chỉ Hiền Hữu sái hết.
Hiền Hữu không tuân mạng lịnh Thầy, ai tuân?
Hiền Hữu lỗi trước sau trị ai? Phải làm gương cho em út thì mới phải là anh Cả.
Cái quyền mình nó cũng phải đồng với hình phạt mình, biết lỗi mình mới đặng trị lỗi người... nghe à. Nội đêm nay phải quì hương.
Chỉnh đàn nghiêm trang đặng Thầy ngự.
---ooo---NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Thiện Nam, Tín Nữ,
Trung, cho các Thiện Nam Tín Nữ ngoài vào, dặn chúng nó làm thinh thủ lễ nghe. Thượng sớ.
Hoài, con xét xem Ðàn cho nghiêm nhặt nghe.
Nguyễn Thị ...:Hậu nhựt công khanh để nối đời,
Thảnh thơi non hứng gió thanh chơi.
Ðua đường Nhơn đạo coi mòn sức,
Công quả đường tu đã phải thời.
Thảnh thơi non hứng gió thanh chơi.
Ðua đường Nhơn đạo coi mòn sức,
Công quả đường tu đã phải thời.
Thâu
Cao Thị ...:Nho phong một cửa để khuyên người,
Tháng lụn ngày qua đã bỏ trôi.
Sự nghiệp cha xưa không gắng giữ,
Hỡi đâu là hiếu khá đền bồi.
Tháng lụn ngày qua đã bỏ trôi.
Sự nghiệp cha xưa không gắng giữ,
Hỡi đâu là hiếu khá đền bồi.
Thâu
Nguyễn Thị ...:Huệ trí phải lo dưỡng tánh chơn,
Ðừng lo âm ấp thiệt cùng hơn.
Khuyên lòng khá niệm vài câu kệ,
Bể Thánh nghiêng tai lóng tiếng đờn.
Ðừng lo âm ấp thiệt cùng hơn.
Khuyên lòng khá niệm vài câu kệ,
Bể Thánh nghiêng tai lóng tiếng đờn.
Thâu
Huỳnh Thị ...:Ðào hoa mang mặt chịu đông trêu,
Của cải thế gian có một điều.
Chuộc tội mua oan đưa kiếp đọa,
Thành thân khá nhớ lợi danh thiêu.
Của cải thế gian có một điều.
Chuộc tội mua oan đưa kiếp đọa,
Thành thân khá nhớ lợi danh thiêu.
Thâu
Khưu Thị ...:Viện trong đảnh túc của son pha,
Một cảnh sao nay chí một nhà.
Ít đức trách Trời chưa phải lẽ,
Tại mình oan nghiệt trổ sanh ra.
Một cảnh sao nay chí một nhà.
Ít đức trách Trời chưa phải lẽ,
Tại mình oan nghiệt trổ sanh ra.
Thâu
Trần Thị Mài:Mày dày mặt dạn đến dòm Trời,
Thiệt quá sức rồi chớ phải chơi.
Ta dặn về nhà lo cúng tế,
Tổ tông hoang phế bấy lâu rồi.
Thiệt quá sức rồi chớ phải chơi.
Ta dặn về nhà lo cúng tế,
Tổ tông hoang phế bấy lâu rồi.
Thượng.
Trần Thị ...:Cận hiền như ở lộn chi lan,
Chọn lựa người ngay kết nghĩa vàng.
Miệng ngọt lòng chua ai dễ thấu,
Chen vào tội chướng mất an nhàn.
Chọn lựa người ngay kết nghĩa vàng.
Miệng ngọt lòng chua ai dễ thấu,
Chen vào tội chướng mất an nhàn.
Thâu
Nguyễn Văn ...:Ðầy đủ đừng toan để đến tràn,
Công trình gầy dựng nghiệp nhà an.
Chia lo đã lắm công chồng đỡ,
Mái tóc nhớ nay nửa trở vàng.
Công trình gầy dựng nghiệp nhà an.
Chia lo đã lắm công chồng đỡ,
Mái tóc nhớ nay nửa trở vàng.
Thâu
Phạm Thị ...:Tảo tần con khá gắng chung lo,
Ðẹp thiếp mới ra nở mặt trò.
Hai gánh chia đồng khi nhẹ bớt,
Coi theo thiên hạ học nên trò.
Ðẹp thiếp mới ra nở mặt trò.
Hai gánh chia đồng khi nhẹ bớt,
Coi theo thiên hạ học nên trò.
Thâu
Huỳnh Thị Kẻ:Kẻ câu chót núi tính nên gì?
Chưa đứng mà toan muốn tính đi.
Của cải đầy đồng không biết hết,
Cứ ngồi xó ró kiếm phân bì.
Chưa đứng mà toan muốn tính đi.
Của cải đầy đồng không biết hết,
Cứ ngồi xó ró kiếm phân bì.
Thâu
Ðặng Thị Xược:Xược lên cho khỏi đảnh non cao,
Rồi trở xuống lo nỗi té nhào.
Danh lợi đừng rằng đời nễ mặt,
Mình còn lắm kẻ đội trên đầu.
Rồi trở xuống lo nỗi té nhào.
Danh lợi đừng rằng đời nễ mặt,
Mình còn lắm kẻ đội trên đầu.
Thâu
Võ Thị Cận, Nguyễn Thị Huệ:Huệ lan chung đứng mái Tây hiên,
Biết phải cùng nhau dữ hóa hiền.
Kẻ đố người làm đôi đứa hại,
Trăm điều nhẫn nhịn mới là Tiên.
Biết phải cùng nhau dữ hóa hiền.
Kẻ đố người làm đôi đứa hại,
Trăm điều nhẫn nhịn mới là Tiên.
Thâu
Ðoàn Thị ...:Ðịnh chi trước phải đủ ba lo,
Ðừng tính như đui bước phải dò.
Một tới ba lui hơi ngất ngưỡng,
Nên chi cho đặng nghiệp nhà to.
Ðừng tính như đui bước phải dò.
Một tới ba lui hơi ngất ngưỡng,
Nên chi cho đặng nghiệp nhà to.
Thâu
Lê Thị Ðèo:Ðèo bồng lắm kẻ xúi con hư,
Hễ biết nên hư khá khử trừ.
Nhẫng giận nhẫng than thêm nỗi khóc,
Biết bao gặp mặt kẻ sanh thơ.
Hễ biết nên hư khá khử trừ.
Nhẫng giận nhẫng than thêm nỗi khóc,
Biết bao gặp mặt kẻ sanh thơ.
Thâu
Trần Thị Ới:Ới hợi mình nay tuổi đã già,
Chết đây ắt sẽ trở ra ma.
Nghe Trời đến dạy điều đạo đức,
Tới học may khi gỡ tánh tà.
Chết đây ắt sẽ trở ra ma.
Nghe Trời đến dạy điều đạo đức,
Tới học may khi gỡ tánh tà.
Thâu
Nguyễn Thị Xuyên:Xuyên dương trăm bộ đấng nên tài,
Vùi lấp bấy chầy chí khí trai.
Dựa cửa rán xem ngoài thế giái,
Nên danh nào phải ngủ nằm dài.
Vùi lấp bấy chầy chí khí trai.
Dựa cửa rán xem ngoài thế giái,
Nên danh nào phải ngủ nằm dài.
Thâu
Xích:Xích Bích thắng Tào cậy gió Ðông,
Nhà cao nghiệp lớn bởi khuôn hồng.
Phàm thân chưa vỗ tay nên sấm,
Thiên lực hòa nhơn khá giữ phòng.
Nhà cao nghiệp lớn bởi khuôn hồng.
Phàm thân chưa vỗ tay nên sấm,
Thiên lực hòa nhơn khá giữ phòng.
Thâu
Chánh:Chánh tâm thân mới vẹn đường tu,
Phải sánh đời này tỉ hữu ngu.
Thanh tịnh thân vào thanh tịnh điện,
Chẳng quen đỉnh núi thấy cao mù.
Phải sánh đời này tỉ hữu ngu.
Thanh tịnh thân vào thanh tịnh điện,
Chẳng quen đỉnh núi thấy cao mù.
Thâu
--------------------Ngày 22-12-1926 (âl. 18-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mercredi 22 Décembre 1926 (18-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu viết thơ cho mấy Thánh Thất lục tỉnh nói: Thượng Kỳ Thanh bị trục xuất ra khỏi hàng Môn Ðệ, chẳng còn quyền hành truyền Ðạo nữa.
Như nó chẳng tin nghe lời bị phạt: Tả Ðạo Bàn Môn thì chịu nghe à. Ðã lập Pháp mà nó muốn làm chi thì làm như buổi trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên Ðiều tránh sao cho khỏi tội.
Hộ Pháp, Hiền Hữu khá an lòng. Chỉnh Ðàn cho Thầy ngự.
---ooo---Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Các con Nam phái cầu Ðạo thượng sớ.
Trung, có lắm đứa chí quyết đến xin hỏi gia đạo và thử thánh Thầy. Con khuyên chúng đừng vọng động tà tâm lắm vậy mà phải bị tội với Thiên Ðình.... nghe.
---ooo---Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Nam phái thượng sớ: Kẻ ở xa trước, Thầy miễn lễ.
Nguyễn Văn Kỳ:Kỳ ba Ðại Ðạo mở đưa lời,
Lánh tục đem thân đến cảnh Trời.
Vở lối đường xưa ngăn đón khách,
Thương sanh dạy lẫn Ðạo đưa lời.
Lánh tục đem thân đến cảnh Trời.
Vở lối đường xưa ngăn đón khách,
Thương sanh dạy lẫn Ðạo đưa lời.
Thâu
Yos (Ðàn Thổ):Vô hành bất thức Ðạo dương khai,
Hữu dụ nhơn sanh khá cảm hoài.
Chánh lý hằng tâm tu tín thiện,
Thân vô nhựt hỷ nhiểm trần ai.
Hữu dụ nhơn sanh khá cảm hoài.
Chánh lý hằng tâm tu tín thiện,
Thân vô nhựt hỷ nhiểm trần ai.
Thâu
Khách Trú (Soài Riêng):Tông môn hậu nhựt đoạt vinh hoa,
Khả trạch quả nhân tánh thuận hòa.
Hữu đạo tự nhiên tâm khoái lạc,
Chí công khả độ khách Trung Hoa.
Khả trạch quả nhân tánh thuận hòa.
Hữu đạo tự nhiên tâm khoái lạc,
Chí công khả độ khách Trung Hoa.
Khá dịch bài thi đưa cho Thổ nhơn xem nghe. Bính viết chữ Nho đưa cho nó.
Ngọc:Ngọc không trau chuốt khó nên hình,
Người chẳng kiên tâm trọng hóa khinh.
Thánh đức chưa ai sanh đủ sẵn,
Ðừng xa chánh Ðạo mất oai linh.
Người chẳng kiên tâm trọng hóa khinh.
Thánh đức chưa ai sanh đủ sẵn,
Ðừng xa chánh Ðạo mất oai linh.
Thâu
Vi:Vi bằng nào rõ chánh ra ngoài,
Hơn phép cao xanh thiệt rất hay.
Trong thế còn người mong thoát tội,
Kỳ trung chưa lọt kẻ ra ngoài.
Hơn phép cao xanh thiệt rất hay.
Trong thế còn người mong thoát tội,
Kỳ trung chưa lọt kẻ ra ngoài.
Lui.
Thêu:Thêu phụng nên xinh chỉ nhuộm màu,
Mình không đạo hạnh mới ra sao.
Như người trần lổ đi đầu chợ,
Như kẻ mang gông muốn nhảy rào.
Mình không đạo hạnh mới ra sao.
Như người trần lổ đi đầu chợ,
Như kẻ mang gông muốn nhảy rào.
Lui.
-----------------Ngày 23-12-1926 (âl. 19-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Jeudi 23 Décembre 1926 (19-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Quới, xuất ngoại, chừng khăn áo trang hoàng sẽ vào chầu.
Thánh Thất nhỏ há, Hiền Hữu Thượng Trung Nhựt đáng lẽ Ðại điện nới vào trong mới phải. Hiền Hữu sai kẻ làm song ly bao vòng nới ra cho tới tượng Phật Tổ làm bái đình nghe.... Cười....
Trung bạch về sự Như Nhãn đương đau nghe phụ nữ cản trở và đòi Thánh Thất. Nó chẳng ăn năn thì phải chết mà chớ. Chỉnh đàn Thầy ngự.
---ooo---NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Các con ....
Trung, con cho một sắc dân rất yêu dấu của Thầy là người Thổ vào hầu nội, mời Tông.
Tông: Phải giải nghĩa cho chúng nó nghe con.
Chơn thần cửu biến giáo nhơn gian,
Tịnh giả tâm thanh đắc lạc nhàn.
Nhứt kiếp Như Lai kinh Phật Tổ,
Nhị căn Lão Tử phẩm Tiên ban.
Tam ngươn chuyển thế truyền Chơn Ðạo,
Khảo tánh tùng hoan độ khách phàm.
Luyến ái hậu tình khuynh thủ đảo,
Thâu hồi chủng tử thoát hồng trần.
Tịnh giả tâm thanh đắc lạc nhàn.
Nhứt kiếp Như Lai kinh Phật Tổ,
Nhị căn Lão Tử phẩm Tiên ban.
Tam ngươn chuyển thế truyền Chơn Ðạo,
Khảo tánh tùng hoan độ khách phàm.
Luyến ái hậu tình khuynh thủ đảo,
Thâu hồi chủng tử thoát hồng trần.
Vui, cười Trung. Thầy toàn thâu.
---------------------Ngày 24-12-1926 (âl. 20-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy lập Tân Luật.
Vendredi 24 Décembre 1926 (20-10-Bính Dần).THÁI BẠCH
Ðại hỉ, đại hỉ. Lão mừng cho chư Ðạo Hữu. Chỉnh đàn Thầy ngự. Trung, Hiền Hữu nhớ mời hội từ 6 giờ mơi chí 11 giờ nghỉ; từ 2 giờ tới 6 giờ nghỉ. Tối từ 8 giờ tới 11 giờ nghỉ.
Như chưa hoàn toàn ngày mai cũng phải vậy. Thầy dặn phải tuân y theo lời. Luật lệ truyền lâu dài, chư Ðạo Hữu phải rán cẩn thận nghe à.
---ooo---NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Thầy mầng các con.
Các con ôi, nếu nói rằng Thầy đã chịu cực nhọc từ ngày Khai Ðạo đến chừ, Ðạo đặng phổ thông mau chóng dường nầy, thì đáng lẽ Thầy mừng cho các con lắm mới phải, sao Thầy lại buồn?
Các con ôi, các con đã chịu lắm khổ não nơi biển trần nầy, từ mười ngàn năm rồi đã ở dưới quyền tà quái áp chế, vì vậy mà Thầy phải phế Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh Kim Khuyết, giáng trần độ rỗi các con. Chớ chi Thầy đến mà làm giảm bớt sự khổ não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào lại còn lập "Tân Luật" ràng buộc các con thêm nữa, vì cớ mà Thầy buồn.
Thầy tỏ thật, cái luật lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí lập thành đây, nó có ảnh hưởng về đạo đức, Thiên phong, Phật sắc của các con, nên Thầy buộc mình cam chịu vậy. Chẳng luật lệ thì là trái phép, mà trái phép thì làm thế nào vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng.
Vậy các con gắng làm phận sự cho hoàn toàn rồi có Thái Bạch giáng cơ sửa luật.
Chư Nhu thượng sớ.
Nguyễn Văn Công:Công trình tay trắng lập nên nhà,
Chẳng kể quyền quan vụ nết tà.
Thương kẻ lao lung nhiều ít giúp,
Còn thân khá gỡ gánh oan gia.
Chẳng kể quyền quan vụ nết tà.
Thương kẻ lao lung nhiều ít giúp,
Còn thân khá gỡ gánh oan gia.
Thâu
Dương Văn Thọ:Dị cảnh tâm đồng khách biệt hương,
Châu qui Hớn phục mộng trinh tường.
Quả căn dục hối tiền khiên kiếp,
Mạt vọng lợi danh đoạt thế cường.
Châu qui Hớn phục mộng trinh tường.
Quả căn dục hối tiền khiên kiếp,
Mạt vọng lợi danh đoạt thế cường.
Thâu
Dư Tăng:Tăng môn xuất Thánh thế nan tri,
Lộc biến bất lao thị văn trì.
Tâm nội bất hồi hương vọng quốc,
Ðiểu hồ ký thử hậu cao phi.
Lộc biến bất lao thị văn trì.
Tâm nội bất hồi hương vọng quốc,
Ðiểu hồ ký thử hậu cao phi.
Thầy vui gặp các con ... Cười....
Trung, con phải tính với Tông dịch Thánh ngôn ra tiếng Thổ... nghe à.
------------------Ngày 25-12-1926 (âl. 21-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy về việc lập Tân Luật, phong chức Giáo Sư cho ông Latapie (Thượng Latapie Thanh) và thâu Môn Ðệ.
Samedi 25 Décembre 1926 (21-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Frère Latapie. Je vous nomme Evêque d'epuipe Francaise c'est au rang des Giáo Sư que vous êtes placé. Vous diréz aux Francaise que le Maitre ne vient pas aujourd'hui. J'ai à régler quelques organisation intérieures du sacerdoce. J'aurais du recourir à vos aides, si votre équipe était formeé.
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu khai hội trọn ngày chẳng có chi là hữu ích hết. Việc tán thành Tân Luật nếu Thầy để cho Lão nội trong hai giờ hoàn thành tất cả. Ngặt một điều là nếu Lão lập luật, chẳng một ai trong hàng Ðạo Hữu hành Ðạo đặng. Vì vậy Thầy giao trọn quyền cho chư Ðạo Hữu lập thành là chủ ý để phần nhơn lực vào đó chút ít, rồi lấy huyền diệu làm ra Thiên Luật, ấy là một hạnh công bình đó.
Vậy Lão giao ba bộ Luật hiệp một cho Thái Thơ Thanh trước, nội trong một tuần lễ phải hiệp thế nào cho ba bộ phải chung vô làm một; qua tuần nữa tới Thượng Tương Thanh; kế một tuần nữa tới Ngọc Trang Thanh, nghĩa là trong ba tuần nữa phải lập thế nào cho rồi luật lệ, đem về Thánh Thất đặng cải lại nữa.... chư Thiên Phong.
Tái Cầu: Vous méritez bien cette récompence. Chez frère Latapie. Vous frère connaitre à tous vos compatristes le pardon de Dieu.
Sauvez les de tous pêches antérieurs qui les amènent à la perdition.
Toàn thâu chư Chúng Sanh; nghe dạy. Thây kệ đứa ngu.
------------------Ngày 26-12-1926 (âl. 22-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Dimanche 26 Décembre 1926 (22-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Trung, Hiền Hữu nhớ viết thơ cho chư Thánh ngày cải luật phải đủ mặt, bằng ai chẳng tuân mạng Lão trục xuất nghe à.... Chỉnh đàn Thầy ngự.
Trung bạch về sự lập thệ cno Minh Tân....
Ngày nào lập luật xong mới đặng. Thăng.
---ooo---NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Chúng Sanh,
... Con rán phạm giái cấm với ăn bậy bạ cho thường con nghe. Thầy duy có một thế là mỗi phen để cho các con chịu hình phạt, như vậy họa may dạy các con mới đặng mà thôi.
Phải ăn cháo thương hàn, trùm cho ra mồ hôi thì hết.
Chư Nhu thượng sớ.
Vĩnh:Vĩnh viễn chi chi cái cuộc đời,
Mà lo gánh vác đã mòn hơi.
Chưa xong nồi gạo sanh ba kiếp,
Mua thảm chác hờn lắm hỗi ôi.
Mà lo gánh vác đã mòn hơi.
Chưa xong nồi gạo sanh ba kiếp,
Mua thảm chác hờn lắm hỗi ôi.
Thâu
Viện:Viện cũ tòa xưa đã đổi dời,
Phải thương lấy phận mới nên nơi.
Mua Tần bán Sở đôi hồi nghiệp,
Ðể bước đường tu khá nhớ lời.
Phải thương lấy phận mới nên nơi.
Mua Tần bán Sở đôi hồi nghiệp,
Ðể bước đường tu khá nhớ lời.
Thâu
Bút:Bút văn chương để phỉnh người hèn,
Nếu Lão công bình chẳng dám khen.
Cái chí chơn thành chưa thấy mặt,
Ðồng tâm múa miệng đã nhiều phen.
Nếu Lão công bình chẳng dám khen.
Cái chí chơn thành chưa thấy mặt,
Ðồng tâm múa miệng đã nhiều phen.
Lui.
Tỉnh:Tỉnh giấc đường quan ngán ngẩm duyên,
Ðôi bên phận nghĩa khó như nguyền.
Lửa hương đã lắm điều cay đắng,
Trách chút tài ba nhẫn chứa phiền.
Ðôi bên phận nghĩa khó như nguyền.
Lửa hương đã lắm điều cay đắng,
Trách chút tài ba nhẫn chứa phiền.
Thâu
Ngỡi:Ngỡi nhân mãn tính vẹn đôi đường,
Ngặt nỗi không tài bộ bẳng dương.
Thành tín khen lòng trung nghĩa đủ,
Thánh tâm âu cũng lúc nên dường.
Ngặt nỗi không tài bộ bẳng dương.
Thành tín khen lòng trung nghĩa đủ,
Thánh tâm âu cũng lúc nên dường.
Thâu
Toàn thâu: 91 Thiện Nam, 41 Tín Nữ. Vương Thành Tông, Hương Cả làng Ba Vệt, S. R.
---------------Ngày 27-12-1926 (âl. 23-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy "... Thầy đến chỉ độ kẻ vô Ðạo, chớ không phải sửa Ðạo."
Lundi 27 Décembre 1926 (23-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thượng Trung Nhựt, Ðạo Hữu khá khuyên những kẻ đến đây chẳng lòng thật tình kỉnh lạy Chí Tôn nên xuất ngoại nghe. Chỉnh đàn Thầy ngự.
---ooo---NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Trung, con nên cho cả Môn Ðệ yêu dấu Thầy hầu nội hết.... Cười... Không cần nói chúng con cũng hiểu, Thầy rất vui mừng. Vậy Thầy dặn con, mỗi khi chúng nó đến phải tiếp rước trọng hậu nghe à.
Chư Nhu thượng sớ.
Bốn ông Lục và chín người Ðàn Thổ - Thâu hết.
Kỳ,... xin đi cúng nơi các nhà đặng khai đàn cho chư Ðạo Hữu trong các làng hạt Tây Ninh.
Ấy là phận sự nó.
Trung xin về.... Chánh phủ - Phải.
Lịch xin cúng cơm cho ông Lão.
Ðặng.... Cười. Nếu Thầy định thì Thầy sẽ dạy con đừng cúng kiến chi hết vì chơn nhơn chẳng còn hưởng của phàm bao giờ. Con làm tiệc đãi chớ chẳng nên gọi cúng.
Ðại:Ðại bi chẳng quản một phần riêng,
Thấp thỏi phàm tâm chác dạ phiền.
Ðại độ khá lo giồi tánh đức,
Quảng tâm mới hạp đức Thiêng liêng.
Thấp thỏi phàm tâm chác dạ phiền.
Ðại độ khá lo giồi tánh đức,
Quảng tâm mới hạp đức Thiêng liêng.
Thâu
Hạp:Hiệp chung mấy Ðạo lại nên giềng,
Tỏ rõ nên quyền Ðấng quản Thiên.
Dưới mắt rõ ràng trăm phép lạ,
Nào ai chối đặng một Thiên quyền.
Tỏ rõ nên quyền Ðấng quản Thiên.
Dưới mắt rõ ràng trăm phép lạ,
Nào ai chối đặng một Thiên quyền.
Thâu
Cẩm:Cẩm tú giang san một gánh nâng,
Ðường xưa nẻo cũ đã quen chừng.
Dưới Trời chưa rõ nền chơn thật,
Hư thiệt xem qua giống đám rừng.
Ðường xưa nẻo cũ đã quen chừng.
Dưới Trời chưa rõ nền chơn thật,
Hư thiệt xem qua giống đám rừng.
Lui.
Tị:Tị hiềm chi những tiếng gièm pha,
Ngó vách chưa hay đã khỏi nhà.
Ðôi mắt phàm phu đâu biết đặng,
Huyền vi tối trọng Ðấng cao xa.
Ngó vách chưa hay đã khỏi nhà.
Ðôi mắt phàm phu đâu biết đặng,
Huyền vi tối trọng Ðấng cao xa.
Thâu
Thiệt:Thiệt thiệt hư hư thế lộn hoài,
Từ xưa lầm lạc dễ ai hay.
Trên không biết dưới đâu nên phía,
Trái địa cầu xây cứ vậy hoài.
Từ xưa lầm lạc dễ ai hay.
Trên không biết dưới đâu nên phía,
Trái địa cầu xây cứ vậy hoài.
Thâu
Cang:Cang trực lòng trong cũng đáng khen,
Tuy vân nghèo khó đức không hèn.
Hơn thua trối mặc đời bao biếm,
Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.
Tuy vân nghèo khó đức không hèn.
Hơn thua trối mặc đời bao biếm,
Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.
Thâu
Sửa:Sửa mình khá giữ Ðạo cho tròn,
Ðức hạnh làm gương sửa cháu con.
Mượn phép thiên nhiên làm phép tục,
Từ nhiên giòng họ hết hao mòn.
Ðức hạnh làm gương sửa cháu con.
Mượn phép thiên nhiên làm phép tục,
Từ nhiên giòng họ hết hao mòn.
Thâu
Thao:Thao lược từ xưa đã mấy nhà,
Ðời qua tên tuổi cũng đều qua.
Nền nhân ví bẳng nêu danh thế,
Thánh đức đem so mới thế nào.
Ðời qua tên tuổi cũng đều qua.
Nền nhân ví bẳng nêu danh thế,
Thánh đức đem so mới thế nào.
Thâu
Thông:Thông tri thời thế xét soi mình,
Biết tội mà chừa phải trọng khinh.
Hai lẽ một đàng tà với chánh,
Bên thì làm dữ phía làm lành.
Biết tội mà chừa phải trọng khinh.
Hai lẽ một đàng tà với chánh,
Bên thì làm dữ phía làm lành.
Thâu
Ðâu:Ðâu hay trần thế Phật Trời vào,
Lập Ðạo dắt dìu phép luật trao.
Cửa Phạm dầu xưa xem lạ nẻo,
Ðường Tiên từ đấy hết ngăn rào.
Lập Ðạo dắt dìu phép luật trao.
Cửa Phạm dầu xưa xem lạ nẻo,
Ðường Tiên từ đấy hết ngăn rào.
Thâu
Hồ Liên Hương:Mười hai bến đậu đã nên duyên,
Phải gió êm đưa vững chiếc thuyền.
Cỡi phụng chờ ngày tu đắc Ðạo,
Phi thường há để khuất thuyền quyên.
Phải gió êm đưa vững chiếc thuyền.
Cỡi phụng chờ ngày tu đắc Ðạo,
Phi thường há để khuất thuyền quyên.
Thâu
Thầy dặn rằng: Thầy đến chẳng phải lập một nền Ðạo mới mà đặng nhắc các con rằng: Ngày tận tuyệt đã hầu gần, Quỉ vương sắp đến, Thánh ngôn các Ðạo đã khai từ thuở tạo Thiên không đủ kềm thúc nhơn sanh đặng trọn lành. Ðời càng ngày càng trở nên hung bạo, nhơn loại giết lẫn nhau, cả hoàn cầu giặc giả, bịnh chướng biến sanh, thiên tai rấp đến. Ấy là các điều Thầy đã nói tiên tri rằng: Ngày tận thế đã đến. Thầy đã tạo thành trọn đủ Pháp Luật. Thầy đến chỉ độ kẻ vô Ðạo, chớ không phải sửa Ðạo. Con hiểu à.
---------------------Ngày 28-12-1926 (âl. 24-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mardi 28 Décembre 1926 (24-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thầy dạy kẻ vô lễ chẳng đủ y phục xuất ngoại. Chỉnh đàn Thầy ngự.
---ooo---NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, Thụ bình thân con.
Ðàn Thổ hầu đàn: Biểu chúng nó quì hết một lần bái lễ rồi ra ngoài. Thầy thâu hết.
Châu Văn Cho:Cho bền dạ sắt với lòng son,
Thiên Ðịa dầu qua Ðạo vẫn còn.
Thánh đức còn mong ngày biến hóa,
Chơn thành hồn thượng há phai mòn.
Thiên Ðịa dầu qua Ðạo vẫn còn.
Thánh đức còn mong ngày biến hóa,
Chơn thành hồn thượng há phai mòn.
Thâu
Hưng:Hưng thời còn có lúc suy thời,
Cuộc thế xem ra một cuộc chơi.
Dụ khách phồn hoa xa nẻo tục,
Dẫn đường cho lạc nẻo về Trời.
Cuộc thế xem ra một cuộc chơi.
Dụ khách phồn hoa xa nẻo tục,
Dẫn đường cho lạc nẻo về Trời.
Thâu
Ninh:Ninh nang một thuở xác đeo mình,
Phải biết chí linh tẻ trọng khinh.
Lập thế chưa ai toàn hưởng thế,
Trông mong chi đặng chữ hòa bình.
Phải biết chí linh tẻ trọng khinh.
Lập thế chưa ai toàn hưởng thế,
Trông mong chi đặng chữ hòa bình.
Thâu
Cam:Cam La trước trẻ đã công hầu,
Bảy chục Khương Công nhẫn nhấp câu.
Mua cuộc danh phàm đời lắm nhọc,
Huống hồ đường Ðạo bước cao sâu.
Bảy chục Khương Công nhẫn nhấp câu.
Mua cuộc danh phàm đời lắm nhọc,
Huống hồ đường Ðạo bước cao sâu.
Thâu
Sô:Sô sa chi xác cũng hôi tanh,
Gớm mặt mà chê dạ chẳng đành.
Có xác phàm trần làm xác Thánh,
Cũng bằng dụ quỉ đặng làm lành.
Gớm mặt mà chê dạ chẳng đành.
Có xác phàm trần làm xác Thánh,
Cũng bằng dụ quỉ đặng làm lành.
Thâu
Tùng:Tùng Thiên an mạng rán làm lành,
Ðừng kết oán đời chác lợi danh.
Bao thuở đầu non chim vắng dạng,
Thị thiền càng thấy bắt buồn tanh.
Ðừng kết oán đời chác lợi danh.
Bao thuở đầu non chim vắng dạng,
Thị thiền càng thấy bắt buồn tanh.
Thâu
Tương:Tương nghe Trời Phật chí công bình,
Ðến cận rõ coi thật hiển linh.
Oan khúc nỗi đời thôi chán ngán,
Tư bề nào biết cậy ai binh.
Ðến cận rõ coi thật hiển linh.
Oan khúc nỗi đời thôi chán ngán,
Tư bề nào biết cậy ai binh.
Thâu
Toàn thâu 60 Thiện Nam, 21 Tín Nữ.
-------------------Ngày 29-12-1926 (âl. 25-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy "Lão giải nghĩa có ba phẩm đồng tử phò loan" & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mercredi 29 Décembre 1926 (25-11-Bính Dần).THÁI BẠCH KIM TINH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Cười... Quờn nghe Lão. Việc cơ bút Hiền Hữu tuy chưa rõ thấu huyền diệu cho trọn mặc dầu, chớ kỳ trung cũng đã hiểu biết chút đỉnh; chẳng phải ai cầm cơ mà đều đặng huyền diệu hết.
Lão giải nghĩa có ba phẩm đồng tử phò loan:
Tây phương gọi Intuitif, Semi-intuitif et Automatique.
Thầy đã cho Hiền Hữu chấp cơ một đôi khi quả có huyền diệu, nhưng mà có nhiều khi tà bổn thân Hiền Hữu nó lại choán lấy Thiên ý mà dịch trật. Vì vậy mà Hiền Hữu nhiều phen thất chí, nhứt là khi thai bào con Hiền Hữu hiểu à....
Thầy dạy Hiền Hữu cùng Phước Sanh chọn kẻ khác cầu Thầy, hầu truyền bá Ðạo nơi tỉnh Biên Hòa nghe à.
Chỉnh đàn Thầy ngự.
---ooo---NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Chúng Sanh. Thiên Phong bình thân.
Voi, con mời những em Thổ Nhơn con vào trong hết lạy Thầy.
Thâu sớ. Thâu hết.
Hiếu, con phải trọng hậu chúng nó con nghe.
Chư Chúng Sanh thượng sớ, nữ Thổ Nhơn nữa. Thâu sớ.... Cười.... Hiếu vô hành lễ con, Nữ phái trước.
Ðiều:Ðiều hòa tâm tánh phận con hiền,
Phải biết kỉnh nhà chúng mới kiên.
Ðừng thói xua chồng và hiếp bạn,
Nên giềng nhờ có nội tề quyền.
Phải biết kỉnh nhà chúng mới kiên.
Ðừng thói xua chồng và hiếp bạn,
Nên giềng nhờ có nội tề quyền.
Thâu
Cang:Cang cường quen tánh hiếp dân nghèo,
Nghe Ðạo Phật Trời cũng muốn theo.
Chẳng khác chồi non xô đại mộc,
Cũng như lên vực sóng toan trèo.
Nghe Ðạo Phật Trời cũng muốn theo.
Chẳng khác chồi non xô đại mộc,
Cũng như lên vực sóng toan trèo.
Lui.
Thêu:Thêu phụng chưa quen nét vẽ hay,
Hạnh kia dầu đặng cũng hơn tài.
Hiếu trung đã đủ đôi thân trả,
Mua phẩm Thần Tiên sẽ bán nài.
Hạnh kia dầu đặng cũng hơn tài.
Hiếu trung đã đủ đôi thân trả,
Mua phẩm Thần Tiên sẽ bán nài.
Thâu
Nao:Nao lòng đừng sợ nhọc thân con,
Chữ hiếu chữ trung gắng giữ tròn.
Ðợi buổi xuân xanh qua khỏi cửa,
Ðưa thề có tiếng nước cùng non.
Chữ hiếu chữ trung gắng giữ tròn.
Ðợi buổi xuân xanh qua khỏi cửa,
Ðưa thề có tiếng nước cùng non.
Thâu
Thiệt:Thiệt thòi giữ phận thiệt thòi đời,
Ðể kẻ hung hăng được ngạo chơi.
May một lẽ đâu Trời phụ khó,
Càng xa bước khách lại thêm lời.
Ðể kẻ hung hăng được ngạo chơi.
May một lẽ đâu Trời phụ khó,
Càng xa bước khách lại thêm lời.
Thâu
Quế:Quế đứng non cao mấy kẻ tìm,
Thay lông nhẹ cánh đở mình chim.
Nhiều cay đắng hưởng làm khôn khéo,
Nhiều đạo đức kêu thế mới mềm.
Thay lông nhẹ cánh đở mình chim.
Nhiều cay đắng hưởng làm khôn khéo,
Nhiều đạo đức kêu thế mới mềm.
Thâu
Nam toàn thâu.
---------------------Ngày 30-12-1926 (âl. 26-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Jeudi 30 Décembre 1926 (26-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh, Chưởng Pháp Hiền Hữu bình thân.
Chỉnh đàn Thầy ngự.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Các con... Thụ bình thân con. Voi hành lễ. Chư nhu thượng sớ. Thâu Thổ nhơn.
Vàng:Vàng chứa đầy kho chẳng ích chi,
Sao bằng chứa đức cháu con ghi.
Cửa Trời vì có ngày kia mở,
Là đức thế gian ít dám bì.
Sao bằng chứa đức cháu con ghi.
Cửa Trời vì có ngày kia mở,
Là đức thế gian ít dám bì.
Thâu
Chắc:Chắc trí chẳng ai đặng chắc lòng,
Cứ tham lợi lớn với dày công.
Lửa đời chưa mãn ba nhang lụn,
Xác thịt tiêu hao nghiệp cũng vong.
Cứ tham lợi lớn với dày công.
Lửa đời chưa mãn ba nhang lụn,
Xác thịt tiêu hao nghiệp cũng vong.
Thâu
Nhiều:Nhiều nhơn quả trước phải đền nay,
Chẳng gỡ cho kham cứ nhắc hoài,
Một tiếng than van thân cực nhọc,
Một oan chẳng chịu muốn gầy hai.
Chẳng gỡ cho kham cứ nhắc hoài,
Một tiếng than van thân cực nhọc,
Một oan chẳng chịu muốn gầy hai.
Thâu
Suối:Suối lành chảy nước hóa sông thanh,
Trăm hạnh chưa phen một nết lành.
Trước muốn toan đưa chơn cửa Phạm,
Thì lo trau chuốt tấc lòng thành.
Trăm hạnh chưa phen một nết lành.
Trước muốn toan đưa chơn cửa Phạm,
Thì lo trau chuốt tấc lòng thành.
Thâu
Thảo:Thảo ngay con vẹn giữ cho bền,
Phải phận là trên đáng bực trên.
Dìu dắc đàn em sau nối gót,
Con đường đạo đức bước càng lên.
Phải phận là trên đáng bực trên.
Dìu dắc đàn em sau nối gót,
Con đường đạo đức bước càng lên.
Thâu
-----------------Ngày 31-12-1926 (âl. 27-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Vendredi 31 Décembre 1926 (27-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Chưởng Pháp bình thân. Voi hành lễ. Thầy không ngự, Lão thâu sớ. Thượng.
Trung:Trung dung khá giữ Ðạo từ đây,
Hễ chắc tớ hay gặp chánh Thầy.
Lừa lọc lắm phen tìm cảnh quí,
Rộn ràng nhiều buổi kiếm đường mây.
Chia thơ chàng Tịch còn trông gặp,
Dựa nẻo chú Ngư có thuở vầy.
Ðắc lộ Tương Như còn khảy ngón,
Thương câu tuyết hứng đến nơi nầy.
Hễ chắc tớ hay gặp chánh Thầy.
Lừa lọc lắm phen tìm cảnh quí,
Rộn ràng nhiều buổi kiếm đường mây.
Chia thơ chàng Tịch còn trông gặp,
Dựa nẻo chú Ngư có thuở vầy.
Ðắc lộ Tương Như còn khảy ngón,
Thương câu tuyết hứng đến nơi nầy.
Chờ mạng Thầy.
Võ Văn Ở:Ở hay đâu bẳng cách ăn hay,
Dầu chẳng thiệt may cũng đủ mày.
Nước trí phải dòng đưa rửa trí,
Ðường dài phải nết để phô tài.
Dầu chẳng thiệt may cũng đủ mày.
Nước trí phải dòng đưa rửa trí,
Ðường dài phải nết để phô tài.
Thâu
Nhẫn:Nhẫn nhục đâu tường lẽ thiệt hư,
Thấy đui nghe điếc bấy lâu chừ.
Nương đời âu cũng cho đời trọng,
Phải phải không không cứ ừ ừ.
Thấy đui nghe điếc bấy lâu chừ.
Nương đời âu cũng cho đời trọng,
Phải phải không không cứ ừ ừ.
Thâu
Chư Nhu có ngày bị Lão đuổi hết.
Toàn thâu. Voi, Hiền Hữu nói lại với mấy kẻ uống rượu, vì tại chúng nó mà Thầy không ngự. Chúng nó sẽ bị phạt mà chớ. Lịch đọc dở lắm nghe.
-----------------------Ngày 01-01-1927 (âl. 28-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Samedi 01 Janvier 1927 (28-11-Bính Dần).THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Chưởng Pháp, Hiền Hữu bình thân, tọa nghe.
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu từ đây coi Thượng Kỳ Thanh như một vị Môn Ðệ vậy thôi, chớ chức Giáo Hữu cũng cất luôn nữa.
Thầy có để lời xin tha, mà Pháp Luật đã phạm tha sao cho đặng.
Hộ Pháp Hiền Hữu chẳng nên nộ khí lắm. Cái giận của Hiền Hữu chẳng bằng sự phạt của Thầy. Hiền Hữu biết giận chớ chưa biết phạt. Hiền Hữu sẽ thấy những kẻ dối Ðạo bị hình phạt nặng nề thế nào. Lẽ thì Bần Ðạo trục xuất những kẻ ấy ra liền, nhưng mà trục xuất rồi thì chư Ðạo Hữu chẳng đặng thấy hình phạt. Hiền Hữu phải đuổi Quới ra khỏi hàng Môn Ðệ, vì nhiều phen phạm giái chẳng kể Luật Ðạo chút nào. Nếu Lão chẳng vì huyết thệ thì đã trục xuất lâu rồi. Chỉnh đàn Thầy ngự.
---ooo---NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Trung, Thầy dặn con phải dạy Trung Sađéc đi truyền Ðạo, biểu nó phải hiệp một với Thuận và Nương nghe à!.... Thầy phong cho nó Ngọc Giáo Hữu, nghe và tuân theo.
Các Nam Nữ Thổ nhơn đều thâu. Con khá dặn chúng nó hết lòng thờ Thầy. Sự khôn ngoan, sự vinh hiển của chúng nó do tại nơi Ðạo mà đặng vậy.... Cười.... Bình thân.... Nam Nữ.... Nữ phái thượng sớ. Hiếu, hành lễ con.
Xích:Xích thằng đã buộc nợ xưa gầy,
Con lũ rồi sau đến cháu bầy.
Chưa thuận ý nhau sao lập nghiệp,
Chàng đen, thiếp trắng cứ sanh ngầy.
Con lũ rồi sau đến cháu bầy.
Chưa thuận ý nhau sao lập nghiệp,
Chàng đen, thiếp trắng cứ sanh ngầy.
Thâu. Con từ đây bớt hổn nghe.
Lợi:Lợi nhỏ đừng quên bỏ nghĩa to,
Chưa nên sang trọng Ðạo không lo.
Ðức kia ví đặng đầy nồi gạo,
Ăn mãn đời con cũng đủ no.
Chưa nên sang trọng Ðạo không lo.
Ðức kia ví đặng đầy nồi gạo,
Ăn mãn đời con cũng đủ no.
Thâu
Chọn:Chọn lựa cho nên một sở làm,
Ðạo thì cũng muốn bạc thì ham.
Thầy phân chánh lý cho con hiểu,
Kẻ vụ thâu đa chẳng thoát phàm.
Ðạo thì cũng muốn bạc thì ham.
Thầy phân chánh lý cho con hiểu,
Kẻ vụ thâu đa chẳng thoát phàm.
Thượng.
Có:Có tình phải nghĩ đến câu duyên,
Mình hẹp hòi xưa mới để phiền.
Lựa chọn đã nhiều già kém lắm,
Chẳng ưa phàm tục hỏi đâu Tiên.
Mình hẹp hòi xưa mới để phiền.
Lựa chọn đã nhiều già kém lắm,
Chẳng ưa phàm tục hỏi đâu Tiên.
Thâu
Cải:Cải kim đã vẹn mảnh gương thề,
Chẳng biết trọng mình để chúng chê.
Ham quá sức ham, ham quá lẫn,
Hậu không nghĩ hậu, hậu nên bề.
Chẳng biết trọng mình để chúng chê.
Ham quá sức ham, ham quá lẫn,
Hậu không nghĩ hậu, hậu nên bề.
Thâu
Mua:Mua quan chưa rõ đặng nên quan,
Thà chịu cho xuôi với nghiệp làng.
Trên chẳng đặng nương vin khúc giữa,
Ðừng cho sụt giá bán nài hàng.
Thà chịu cho xuôi với nghiệp làng.
Trên chẳng đặng nương vin khúc giữa,
Ðừng cho sụt giá bán nài hàng.
Thâu
Cười.... Hiếu, con cũng ngã lòng nữa sao con. Con nhớ ngày trước Thầy cực nhọc với các con thì thế nào, mà ngày nay các con cực nhọc với Thầy lại than phiền.... Cười..... Các con một đầu, Thầy một đầu nắm chặt tay lưới vớt cả chúng sanh. Ngày vui các con chẳng phải nơi thế này, mà là ngày các con hội hiệp cùng Thầy nơi Bạch Ngọc Kinh, hiểu con há?...
Nam thượng sớ.
Dư:Dư luận chê bai mặc tiếng đời,
Miễn con biết đặng gặp Thầy Trời.
Nắng mưa kia vốn chưa vừa kẻ,
Phàm tục nhiều tay quá lỗi lời.
Miễn con biết đặng gặp Thầy Trời.
Nắng mưa kia vốn chưa vừa kẻ,
Phàm tục nhiều tay quá lỗi lời.
Thâu
An:An vui miễn biết giữ lòng lành,
Nước có lóng phèn nước mới xanh.
Giữa cõi phong trần trường dạy học,
Khôn ngoan thói tục ấy đua tranh.
Nước có lóng phèn nước mới xanh.
Giữa cõi phong trần trường dạy học,
Khôn ngoan thói tục ấy đua tranh.
Thâu
Khỏe:Khỏe thân chẳng kẻ học Hi Vi,
Biết luận theo khi biết tính thì.
Mơi ngủ, tối cờ, khuya lại rượu,
Cân đai mang mến lắm điều khi.
Biết luận theo khi biết tính thì.
Mơi ngủ, tối cờ, khuya lại rượu,
Cân đai mang mến lắm điều khi.
Thâu
Toàn thâu: 111 Nam, 24 Nữ; 16 Thổ nhơn = 151.
----------------------