PHẦN GIÁO LÝ
ĐẠO LÀ GÌ?
Nghĩa lý chữ Đạo rất cao siêu, khó mà giải rõ được, vì Đạo không có hình trạng như các sự vật ở thế gian.
Đức Thích Ca gọi Đạo là Chơn Như, là Phật Tánh, là Bồ Đề.
Đức Lão Tử gọi Đạo là Cốc Thần, là nguồn sanh ra Vũ Trụ vạn vật.
Đức Khổng Tử gọi Đạo là Thái Cực, là Thiên lý.
Danh từ tuy khác nhau, chớ tựu trung điều chỉ cái nguồn cội của Càn Khôn Vũ Trụ và Vạn Vật. Cái nguồn cội ấy khi còn bất động gọi là Đạo. Còn khi đã động mà chuyển hóa thì gọi là Đấng Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Trời vậy.
Đức Lão Tử lại nói:
“Đạo mà nói ra được thì chẳng phải Chơn Đạo, Danh mà gọi là được thì không phải thiệt danh”.
Kinh Phật lại nói:
“Đạo khó mà nói ra. Học giả phải tự mình tỏ ngộ lấy”.
Tỷ thí một người câm thấy cảnh chiêm bao như thế nào rồi mà mô tả lại cho người khác biết. Chúng ta muốn giải lý cho rõ cái Đạo thì chẳng khác nào người câm muốn giải rõ chuyện chiêm bao kia vậy.
Bởi vì Đạo là chơn lý tuyệt đối, bổn tánh của Đạo là Hư-không lặng lẽ, xem chẳng thấy, lóng chẳng nghe, rờ không đụng, không lớn, không nhỏ, không trước, không sau, không thể dùng lời nói mà diễn tả được, hoặc đem ra mà so sánh. Đạo sanh ra Trời Đất vạn vật, lưu hành trong Vũ Trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào cũng có phần linh diệu bên trong để điều hòa, trưởng dưỡng cho nó. Đạo là tinh thần của Trời, Đất, Vạn vật mà Trời, Đất, Vạn vật là bản thể của Đạo.
Nhưng Đạo vốn vô hình, cho nên muốn trình bày cái Đạo ra, tất phải mượn hữu hình để phô bày cái “Dụng” mà thiệt hành cái “Thể”.
Ví dụ ta có một tư tưởng nào, cái tư tưởng ấy vốn vô hình, mà muốn trình bày nó ra cho người ta biết, cần phải mượn văn chương là vật hữu tình.
Vì lẽ đó mới phát sanh nhiều tôn giáo là những cái “Dụng” của Đạo như Phật giáo, Tiên giáo, Nho giáo, v.v...
Thế thì các tôn giáo vốn một gốc mà ra vẫn tôn thờ Đấng Chúa Tể, Càn Khôn Thế giới, chỉ vì khác ngôn ngữ mà xưng tụng bằng danh hiệu khác nhau.
Như Phật giáo gọi Đấng ấy là A Di Đà, Do Thái giáo gọi là Jéhovah, Hồi giáo gọi là Allah, Ấn Độ giáo gọi là Brahma, Ai Cập gọi là Osiris, Công giáo gọi là Đức Chúa Trời, người Việt Nam gọi là Thượng Đế (Ông Trời), ngày nay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Cao Đài.
Mặc dầu các tôn giáo khác nhau về cách tổ chức và Lễ nghi tế tự, nhưng vẫn giống nhau ở chỗ lấy từ bi bác ái mà dạy chúng sanh, lấy sự “Chuyển mê khải ngộ” làm tôn chỉ, lấy sự giải thoát luân hồi làm cứu cánh.
Vậy tôn giáo vẫn có một.
GIẢI NGHĨA CHỮ ĐẠO (道)
Nếu dùng ngữ nguyên học phân tách chữ Đạo ra mà xem xét cách cấu tạo của nó, ta thấy Ông Thương Hiệt (người đặt ra văn tự nước Trung Hoa) dụng ý một cách sâu xa mỗi phụ ngữ đều có ý nghĩa hay của nó.
Viết chữ Đạo, bắt đầu là hai phết (丷) tượng trưng âm dương nhị khí, dưới gạch một ngang (一) tượng trưng âm dương hiệp nhứt là cơ sanh hóa. Kế dưới là chữ Tự (自) là mình, tự mình nghĩa là con người phải tự tri, tự giác, tự giải thoát, chớ chẳng ai làm những điều đó cho mình được. Trên dưới lại ráp thành chữ Thủ (首) là đầu, là trước hết, vì Đạo là đầu mối, là nguồn gốc của Càn Khôn vạn vật. Bên trái chữ Thủ lại có chữ Tẩu (辶) là chạy, là vận động, tượng trưng cơ vận chuyển, cơ biến hóa của Đạo, tức Pháp luân thường chuyển.
TU LÀ GÌ?
Có nhiều người nói: Tu cần tin Trời, tưởng Phật, chuyên làm lành lánh dữ, nhưng chưa tu được, vì gia đình còn ràng buộc, Nhơn Đạo chưa xong.
Bảo như thế tức là chưa hiểu nghĩa chữ tu. Họ lầm tưởng hễ tu là phải ly gia cắt ái, phế hết việc đời, cạo đầu, mặc áo dà, rồi vô chùa, hoặc lên non tụng kinh gõ mõ, trường trai khổ hạnh.
Vậy thiệt nghĩa chữ Tu là gì?
Theo nghĩa thông thường, Tu là trau dồi, sửa chữa chẳng hạn như tu bổ (sửa sang cái gì hư hỏng) tu kiều bồi lộ (sửa cầu đắp đường) tu chỉnh (sửa lại cho đúng).
Hiểu theo lẽ Đạo, Tu là trau lòng cho trong sạch thanh cao, sửa tánh cho ra tốt đẹp, rồi chế ngự dục tình, Đoạn trừ ích kỷ, dọn mình chơn chánh để hành động đúng theo luật trời.
Thế thì ở đâu cũng có thể Tu được. Tu tại gia mà giữ vẹn công phu, còn hơn ẩn non ẩn núi, vì chính ở chốn phồn hoa náo nhiệt, là chỗ dễ kích thích dục tình đê tiện, mà đạo tâm vẫn được vững bền, không nhiễm bợn nhơ, tỷ như hoa sen sanh chốn bùn lầy mà vượt lên tốt tươi trong sạch. Tu ở tại thị thành mà không sanh trần niệm, mới thiệt là bậc đại ẩn, sách có câu: “Đại ẩn ẩn thành thị”.
Tu cốt yếu là trau dồi cái tâm:
Tâm con người lúc ban sơ vốn minh mẫn và trọn lành, nhưng trải qua nhiều kiếp, nó bị cái nghiệp vô mình lưu tồn từ mấy đời trước, lại thêm khí bẩm câu thúc, vật dục phủ che mà lu mờ cái bổn thể đi. Nay ta lo tu hành cốt là trau dồi cái tâm cho sáng tỏ lại như lúc ban sơ, thì hành động của ta sẽ quay về lẽ phải. Thế thì trong việc tu hành, cốt phải lấy Tâm làm nền móng. Cái tâm mà giữ được hư không, thì ngoại vật hết xâm nhập, mà nội niệm cũng không sanh được, như thế là dứt cả tham sân, phiền não, khỏi lo tạo nghiệp, thì không còn chi là chướng ngại nữa.
Mạnh Tử cho rằng cái Tâm của con người chìm đắm trong vòng vật dục như con chim sổ lồng, nên Ông gọi Tâm ấy là Phóng Tâm.
Vương Dương Minh thì cho rằng cái Tâm là tấm gương sáng. Để mất cái Tâm chẳng khác nào để cho bụi bậm che lấp cái gương sáng đi. Cho nên người biết tu phải cần lau chùi (trau dồi) cái Tâm cho sáng lại. Cái Tâm vốn không phải tối, chỉ vì bị cái tập tục mờ ám, tư dục phủ che, cho nên bỏ được các vật phủ che làm mờ ám đi, tự nhiên cái Tâm sáng lại.
Đức Đạo Tín lại bảo: Cảnh với duyên vốn không tốt xấu mà phân biệt ra là tại cái Tâm. Nếu Tâm chẳng trì tục theo duyên cảnh, thì vọng tình do đâu mà khởi đặng? Mà hễ vọng tình chẳng khởi, thì Chơn Tâm sáng tỏ.
Vậy tu hành cốt là lo làm cho cái Tâm sáng trở lại như buổi ban sơ, để ứng hiệp cùng Trời, vì Trời và Tâm con người vốn là một.
TÂM LÀ GÌ?
Chữ Tâm vốn có nhiều nghĩa, người ta gọi Tâm là trái tim, ý muốn chỉ một khối nhục đoàn làm cơ quan cho sự tuần hoàn trong châu thân, như Bác sĩ nói: “Ông đau tim, bà yếu tim” là chỉ trái tim nầy.
Có khi người ta gọi Tâm là Lòng, nếu muốn chỉ về tình cảm. Một thiếu nữ bị một tình nhân phụ bạc, người ta nói thiếu nữ ấy đau lòng, chớ không nói đau tim.
Hiểu về mặt Đạo, chữ Tâm lại có nghĩa khác. Theo giáo lý nhà Phật, con người vốn có bát thức mà thức thứ tám gọi là A-lại-da thức, người Trung Hoa gọi Tạng thức hay Nghiệp thức tức là cái Tâm đó vậy. Gọi Tạng thức vì cái tâm, tuy vô hình, nhưng nó là cái thức chứa đựng các hột giống tốt xấu, lành dữ, thanh trược và những tư tưởng ác kiến, tà kiến, ngã chấp, pháp chấp...
Một cái kho chứa đồ vật, tuy rộng lớn tới đâu cái thể tích của nó vốn có giới hạn. Nhưng cái tâm vô hình vô thể, nhưng sự chứa đựng của nó vốn vô cùng vô tận, dầu chứa đựng bao nhiêu cũng không đầy.
Gọi Nghiệp thức là vì cái Tâm, lúc đi đầu thai, đem theo cái hột giống nói trên, tức là những dục vọng, những tư tưởng tốt hay xấu và những ảnh hưởng việc làm Thiện hay Ác của kiếp trước để tạo cái nghiệp báo cho kiếp tái sanh.
Thông Thiên Học gọi cái Tâm là Thượng trí (Corps mental supérieur). Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Nhơn hồn hay Giác hồn (Âme humaine ou âme sensitive).
Tam Giáo dạy trăm điều ngàn việc rút lại chỉ khuyên con người chú trọng cái Tâm hơn hết
- Đạo Nho dạy: “Tồn tâm dưỡng tánh”, là giữ cái tâm cho còn đặng, dưỡng cho cái tánh cho minh mẫn.
- Đạo Lão dạy: “Tu tâm luyện tánh”, là trau dồi cái Tâm cho trong sạch, lặng lẽ, đặng luyện cái tánh đến chỗ siêu phàm nhập thánh.
- Đạo Phật dạy Minh tâm kiến tánh là làm sáng cái Tâm đặng thấy rõ cái Chơn tánh của mình.
Thánh hiền xưa lại do theo nguyên ngữ học phân tách chữ Tâm ra, mà giải nghĩa như vầy:
“Tam điểm như tinh tượng,
Hoành câu tợ nguyệt tà.
Phi mao tùng thử đắc,
Tố Phật dã do tha.”
Hoành câu tợ nguyệt tà.
Phi mao tùng thử đắc,
Tố Phật dã do tha.”
Nghĩa là: Ba chấm như tượng hình sao, móc câu ngang tợ trăng tà. Thành cầm thú mang lông đội sừng vẫn do đó, mà thành Tiên Phật cũng do đó.
Lại nói: “Nhất thiết do Tâm tạo”.
Nghĩa là: Mọi việc đều do Tâm tạo ra, Tâm tạo ra thiên đường địa ngục, làm chúng sanh mê mẫn trầm luân cũng do Tâm, mà làm Phật hoàn toàn giác ngộ cũng do Tâm.
PHƯƠNG PHÁP TU THÂN
Những bực tu thượng thừa, trọn hiến thân cho Đạo tức cần phải ly gia cắt ái, phế hết phàm tình tục sự.
Còn hàng Thiện tín, chỉ là những người giữ Đạo mà thôi. Hạng này cần phải làm lụng sanh sống, nhưng khác hơn người thường là ngoài giờ làm lụng, thay vì rong chơi vô ích, họ nhơn lúc rảnh rang lo lập công bồi đức, hoặc dạy dỗ lẫn nhau, cùng trau sửa tánh tình bằng cách kiểm soát tư tưởng và việc làm của mình.
Kiểm soát tư tưởng.
- Trước khi ta sắp làm một việc chi, nơi đầu óc ta đã phát sanh cái tư tưởng về việc ấy rồi. Tư tưởng càng mạnh càng xúi giục xác thân thi hành liền. Còn một tư tưởng quấy, dầu chưa đem ra thực hành, cũng đã làm cho tâm thần ta hoen ố. Đức Chí Tôn đã dạy:
“Thà các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể”.
Nói tội: chẳng khác nào nghĩ quấy, vì do tư tưởng quấy mới nói tội. Vì thế mà chúng ta cần phải kiểm soát tư tưởng của chúng ta từng li, từng tí.
Kiểm soát tư tưởng nghĩa là giữ đừng để cho Tâm trí phát sanh ra những tư tưởng quấy.
Thế nào gọi là Tư tưởng lành? Tư tưởng quấy?
- Gọi lành là những tư tưởng nào không có tánh cách ích kỷ, mà là lợi nhơn, lợi vật. Gọi quấy là những tư tưởng nào lợi cho mình mà lại hại cho người cho vật.
Lại trong giờ rảnh việc, nhất là ban đêm thanh vắng là lúc Tâm hồn an tịnh, ta cần phải tưởng Trời, tưởng Phật, tức là ta dùng tư tưởng mà cảm thông với Trời Phật, hầu tiếp điễn lành tẩm tưới tâm hồn, ngày được thanh cao minh mẫn.
Kiểm soát việc làm:
- Ông Tăng Sâm, môn đồ của Đức Khổng Tử, thường ngày xét mình về ba việc (Tam tỉnh ngô thân) sau đây:
1. Mưu việc cho người có bất trung không?
2. Giao thiệp với bậu bạn có bất tín không?
3. Dạy học trò, tự mình có bất cập không?
Thánh hiền xưa còn kiểm soát việc làm của người hằng bữa huống chi là chúng ta.
Vậy mỗi buổi tối, ta nên kiểm điểm sự hành động của ta trong ngày và tự hỏi:
1.- Ta có ích kỷ không?
2.- Ta có phạm Ngũ giới cấm không?
3.- Ta làm việc có chểnh mảng không?
4.- Ta có làm ngơ trước một điều thiện nhỏ nào không?
5.- Ta có làm điều gì phạm đến danh giá người không?
6.- Ta có làm hại ai không?
7.- Ta có xúi giục người làm quấy không?
8.- Ta có làm điều chi trái với thuần phong mỹ tục không?
9.- Ta có làm điều chi trái luật nước không?
10.- Ta có làm điều gì bất công không?
Mỗi ngày ta cứ tự xét mình như vậy mãi, hễ nhận thấy mình đã làm điều chi thuộc về 10 câu tự vấn ấy, tức khắc phải lo sửa cải, một ngày cải tiến được một ít, lần lần ta sẽ quay về với lẽ phải.
Tổng kết:
Ngoài những phương pháp tu dưỡng cao siêu, dành riêng cho bực Thượng Thừa, những quy tắc vừa kể trên đây rất hạp với chư Thiện Tín, mà vẫn không có điều chi bó buộc khó khăn, mà cũng không mảy may nào gọi yếm thế, dị đoan, mê tín.
TỊNH TAM NGHIỆP
Tịnh Tam nghiệp là dẹp yên Tam nghiệp cho tâm hồn ta được trong sạch. Tam nghiệp là gì? Là Ba nghiệp chướng làm cho con người vì đó mà phải chịu ác quả.
Tam Nghiệp là Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, Ý nghiệp.
Thân nghiệp: Thân nghiệp do ba nguyên nhơn cấu tạo:
1. - Sát sanh.
2. - Trộm cắp.
3. - Dâm dục.
Sát sanh: Đã có Thánh giáo Đức Chí Tôn cấm sát sanh. Đây xin bàn thêm. Người tu hành có lòng bác ái thấy loài Tứ sanh bị sát hại, rất nên thương xót, tự mình tìm phương cứu hộ, hoặc lấy của chuộc mạng cho chúng thay, thì đâu nỡ nào giết chúng cho đành?
Kinh Phật: (Dhammika Sutla) có dạy: “Người chủ nhà không nên tự mình giết một con vật nào, cũng không nên đồng lòng cho người khác giết, hoặc xúi họ giết”.
Trộm cắp: Trộm cắp vốn do lòng tham lam mà ra.
Đã có Thánh giáo cấm tham lam. Đây xin phụ thêm vài chi tiết. Người tu hành vì lòng bác ác tự xuất của tiền bố thí cho kẻ nghèo, thì đâu còn ham muốn tài vật của người khác? Dầu trong lúc chiêm bao cũng không mơ tưởng của hoạnh tài, huống lựa là khi thức tỉnh mà khởi lòng trộm cắp?
Dâm dục: Đã có Thánh huấn cấm tà dâm. Đây xin bàn thêm. Dâm dục chẳng những là một trọng tội về luân lý, mà còn thâu ngắn đời sống con người. Biết bao người làm điều can danh phạm nghĩa vì dâm dục? Biết bao người khuynh gia bại sản cũng vì dâm dục.
Phàm đạo tặc cướp lấy tiền của là vật bên ngoài của người, thì người phải nghèo, còn sắc dục cướp lấy tinh lực là vật báu bên trong của người, thì người phải chết.
Tóm lại, tránh được sát sanh, trộm cắp và dâm dục là giữ trọn ba điều tịnh giải của Thân, tức giải được cái nghiệp chướng thứ nhất là Thân nghiệp vậy.
Khẩu nghiệp: Khẩu nghiệp do bốn nguyên nhân cấu tạo:
1.- Láo xược.
2.- Đâm thọc.
3.- Lời nói thô ác.
4.- Lời nói không nghĩa lợi.
Láo xược: Đã có Thánh huấn cấm nói dối. Đây xin bàn thêm. Thánh hiền xưa dạy rằng: “Nửa câu nói ra chẳng phải, đủ tổn đức bình sanh” (Bán cú phi ngôn, tổn bình sanh chi đức). Phương chi ba tấc lưỡi mà việc không nói có, việc có nói không, quấy đổi ra phải, phải sửa thành quấy, thì tổn đức biết bao. Vậy người có Đạo phải nói năng chơn thật, đã khỏi tổn đức lại được người kính tin mến phục.
Đâm thọc: Người tu hành chẳng nên đem chuyện người này thuật lại với người kia, rồi đem chuyện người kia mách thóc với người nọ, cốt làm cho hai đàng giận hờn, thù ghét nhau. Trái lại, nên hòa giải những sự bất bình, xích mích nhau.
Lời nói thô ác: Người tu hành chẳng nên nói những lời thô ác và hung bạo, chỉ có người không giáo dục, thiếu lễ độ mới dùng những lời thô tục. Người nói thô tục gợi ý niệm dâm đảng và hạ thấp phẩm giá con người nói ra. Người trong cửa Đạo bao giờ cũng trọng phẩm giá mình, nên lời nói cần phải nhã nhặn, ôn hòa, dịu ngọt, gây được thiện cảm của người nghe.
Lời nói hung ác như hăm he, nguyền rủa, chứng tỏ rằng người thốt ra những lời ấy có một tâm địa hiểm sâu, ác độc, là cái nguồn sanh ra tội lỗi, mà người tu hành phải tránh.
Lời nói không nghĩa lợi: Những lời nói bông lơn đùa bỡn, thường làm cho người nghe phật ý, vì nó làm chạm đến lòng tự ái của người. Những lời nói xuyên tạc vô nghĩa lý, không đem lợi ích cho ai, mà làm cho người bị xuyên tạc mất thiện cảm với mình, mà thiện cảm là điều cần thiết trong phép xã giao.
Người tu hành muốn cảm hóa ai, hoặc muốn đem ai về chánh nghĩa, cần phải ôn hòa mà dẫn độ, thành thật mà khuyên lơn, người ta mới cảm mến mà nghe theo.
Tóm lại, tránh được láo xược, đâm thọc, lời nói thô ác, và không nghĩa lợi, là giữ trọn bốn điều tịnh giải của Khẩu, tức giải được cái nghiệp chướng thứ nhì là Khẩu nghiệp vậy.
Ý nghiệp: Ý nghiệp do ba nguyên nhơn cấu tạo:
1. - Ganh ghét.
2. - Sân si.
3. - Tà kiến.
Ganh ghét: Người tu hành vốn trọng điều nhơn.
Mình nên, cũng muốn người nên; mình đạt cũng muốn người đạt (Kỷ dục lập, nhi lập nhơn; kỷ dục đạt, nhi đạt nhơn). Cho nên, thấy người đó có khả năng về việc gì, mình nên giúp cho người chóng thành công việc ấy, chớ không nên đem lòng ganh tị, kiếm chuyện soi bói, hoặc tìm cách cản trở bước đường tiến thủ của người.
Người Đạo phải tránh ích kỷ mà trọng vị tha.
Sân si: Thánh hiền xưa ghép chung 2 chữ Sân (giận) và Si (ngu dại) thật chí lý. Hẳn vậy, sự giận làm cho con người mất trí khôn mà ra ngu dại. Hoặc giả chỉ có người ngu dại mới hay giận dữ.
Tục ngữ có câu: “No mất ngon, giận mất khôn”.
Chúng ta thử tưởng tượng một người trong khi giận dữ: Trán nhăn, mắt nháng lửa, gân mặt nổi lên, sắc mặt đỏ ngầu, hay xanh nhợt, tay chân run rẩy, lời nói lập cập, khi cộc cằn thô lỗ, khi dứt nổi không chừng. Con người lúc này, không còn tự chủ, cho nên phát ra những cử chỉ và hành động đáng tiếc. Cái tâm phát hỏa rồi, thì phải trái nan phân; trí khôn lúc bấy giờ bị nộ khí choán hết, thành ra xử sự quấy, nói năng quấy mà tổn âm đức. Nên nhớ rằng: Nóng như Trương Phi là cái nóng giết mình, nguội như Trương Lương là cái nguội nên danh.
Tà kiến: Người tu hành phải biệt phân chơn ngụy để khỏi lạc vào tà kiến. Nên tin theo giáo lý của bề trên dạy, vì những giáo lý ấy, một phần do Đấng Thiêng Liêng giảng dạy, một phần do các bậc Đạo trưởng đã dùng lý trí sáng suốt mà thành lập đúng theo chơn truyền, đàn em cứ tin theo là khỏi sai lầm.
Có người tín ngưỡng minh mông, nghe nói lý thuyết nào mới lạ, phép tắc chi linh nghiệm, là vội tin theo, đến đổi bỏ Đạo mình, chạy theo những điều mà họ lầm cho là huyền diệu.
Đức Chí Tôn có dạy rằng:
“Phần nhiều trong các con chẳng lo thờ kính Thầy, tưởng cho đem thờ Thầy vào nhà là chủ ý cầu một sự ích riêng chi cho gia quyến vậy thôi, chớ chẳng hiểu là một nguồn trong sạch để rửa các lỗi phàm của các con”.
Lại có người còn mê tín bóng chàng, coi bói, cầu vái cho xu kiết tị hung. Nên biết rằng theo Luật Nhơn quả, theo phép công bình cảm ứng, nếu ta hằng ngày cứ lo hành Thiện không phụ ác, không tưởng ác, không hành ác, thì thế nào ta không gặp việc lành, việc tốt, cần chi phải cúng sao cúng hạn cầu quẻ, xin xăm, coi tướng, coi số, lựa ngày, lựa giờ, cúng sao cúng hạn, mà ta tự gây ác cho ta hoài, thì sao hạn có đem thiện quả cho ta được không?.
Lựa ngày lành tháng tốt để làm một việc chi mà nếu ta cứ bo bo tích ác, thì chắc gì ngày lành tháng tốt ấy giúp ích được ta?
Vẫn nghĩ rằng việc bói khoa cũng có khi linh nghiệm, nhưng người tu hành thì cứ giữ phận yên ổn mà đi tới, phước thì hưởng phước, gặp họa thì lãnh họa, không cần tìm hỏi việc tốt xấu, cứ thuận theo Thiên Lý mà lưu hành. Mạnh Tử có nói rằng: “Tận kỳ đạo nhi tử giả, chánh mạng giả”. Nghĩa là: Giữ trọn một chủ nghĩa đạo đức, mà chết là chánh mạng vậy.
Tóm lại, tránh được ganh ghét sân si, tà kiến là giữ được điều tịnh giải của Ý, tức giải được cái nghiệp-chướng thứ ba là Ý nghiệp vậy.
Tổng kết:
Tịnh được Tam nghiệp rồi, ta tự thấy nhẹ nhàng thơ thới, tinh thần an tịnh như nước không sóng dợn, nước tự nhiên trong, như gương không bụi vậy, gương tự nhiên sáng. Nước trong gương sáng, thì các vật tượng đều hiện vào đó cả. Cho nên người tịnh được Tam nghiệp tự thấy mình phát huệ.
ĐỨC TÁNH CỦA NGƯỜI TU
Người Đạo cần phải giữ bổn hạnh cho chánh đáng thì tinh thần mới mau tấn hóa. Cần phải có những đức tánh: Từ bi, hỉ xả, nhẫn nhục, tinh tấn, bình đẳng, bác ái, nhu hòa, tự tại, chí thành, vong ngã, lợi tha, khiêm tốn.
1.- Trọng mạng sống tất cả loài tứ sanh; xót thương người đói khó, cô đơn mà trợ giúp, buồn thấy người làm dữ, vui xem kẻ làm lành. Đó là từ bi.
2.- Ai chê không giận, ai ghét chẳng hờn; đại lượng với người thù nghịch; dĩ ân báo ân, mà không dĩ oán báo oán, hơn nữa, dĩ oán vi ân. Đó là hỉ xả.
3.- Vui chịu đủ phương thử thách, gặp biến cảnh thế nào cũng biết chìu theo thế ấy, mà không phiền muộn trách than, không ngã lòng thối chí. Đó là nhẫn nhục.
4.- Cố tâm tiến trên con đường công đức. Quyết không nhiễm một mảy vọng niệm, để tâm hồn được hư không, thơ thới, ngoài không biếng nhác tháo lui, một mực hăm hở lo tròn bổn phận. Đó là tinh tấn.
5.- Xem vạn vật vốn đồng nguyên, xem các loài máy động vẫn đồng tánh. Đối đãi với người không phân giai cấp, không phân quốc tịch, chẳng so đo phú bần quý tiện; lấy đức làm trọng, lấy đạo làm cao, không cậy thế ỷ quyền, không xu phụ người thế lực, xem ta như người, xem người như ta. Đó là bình đẳng.
6.- Xem tất cả chúng sanh là con một Cha, thương người mến vật, trọng tất cả sanh mạng mà không phạm giới sát. Đó là bác ái.
7.- Dùng nhã lượng, lễ nghi ứng đối với người phỉ báng, mềm mỏng mà khuyên lơn, ôn hòa mà hóa độ, dầu gặp rối ren gây cấn thế nào, cũng bình tĩnh điều đình ổn thỏa. Đó là nhu hòa.
8.- Phàm ở đời, bất câu vào cảnh ngộ nào, hễ tri túc là toại, tùy phận là yên, lập công với đời là phỉ nguyện, chớ không cần khen thưởng; thấy lợi sợ điều phi nghĩa, gặp may không đắc chí, gặp rủi chẳng nao lòng, lành dữ đều phú cơ báo ứng, cứ ung dung thơ thới, chẳng cho lưới trần lao lung câu thúc. Đó là tự tại.
9.- Thành thật với mọi người, dầu trong đạo hay ngoài đời cũng vậy, trong tất cả hành vi động tác, nhứt nhứt đều ngay thẳng thật thà, không một lời giả dối, không một ý tà tây, xử sự chẳng mưu mô lừa đảo. Đó là chí thành.
10.- Làm phải không cần khen, làm lành không cần thưởng, giàu sang không ham, quyền hành chẳng thích, một mực cứ quên mình, quên cả nếp sống tiện nghi, quên cả công lao cực nhọc, để phụng sự chúng sanh. Đó là vong ngã.
11.- Giúp người lợi vật, chỉ cho người biết làm âm đức, giúp người già cả, tùy phương tiện thí tài, thí pháp. Ấy là lợi tha.
12.- Đừng khoe tài đức, nhất là khi tài đức mình chẳng có, không tự cho mình giỏi hơn ai, hạ mình mà trọng người. Đó là khiêm tốn.
Người tu hành giữ tròn 12 đức tánh trên đây lo gì không nên Đạo.
KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO CAO ĐÀI
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Đại Ân Xá Kỳ Ba vốn là một nền giáo lý mới mẻ, do thần cơ diệu bút của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế lập ra. Nền tân giáo lý này cũng gọi là Đạo Cao Đài, lấy theo Thánh Danh của Thượng Đế là vị Giáo Chủ dùng lập Đạo trong thời Mạt Pháp này. Cao Đài có nghĩa là cái Đài cao nhất ở ngôi Thái Cực, tức Đài ngự của Thượng Đế.
Cao Đài Xuất Thế.
Ngày 14 tháng 10 năm Bính Dần (18 November 1926) Đạo Cao Đài chính thức thành lập với một Đại Lễ cực kỳ long trọng tại Từ Lâm Tự, Gò Kén (Tây Ninh) giữa hàng muôn đạo hữu từ các tỉnh Nam Việt tựu về.
Tôn Chỉ:
Tôn chỉ Đạo Cao Đài là quy Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi. Tôn chỉ này dung hòa một phần lý thuyết chơn chánh từ xưa hiệp với Thánh giáo ngày nay, lập thành một Tân Giáo Lý. Một triết lý Đại đồng, hầu xây dựng một nền tảng tinh thần đạo đức chung, thích hợp với tín ngưỡng và trình độ tấn hóa của nhơn loại hiện kim.
Chủ nghĩa:
Chủ nghĩa của Đạo Cao Đài là Bác Ái và Chí Thành, Hòa Bình và Công Lý. Câu liễn ghi hai bên cổng vô Tòa Thánh Tây Ninh nói một phần nào về chủ nghĩa này.
Cao thượng Chí Tôn, Đại Đạo hòa bình dân chủ mục.
Đài tiền sùng bái, Tam Kỳ cộng hưởng tự do quyền.
Cứu cánh:
Thượng Đế lập ra Đạo cứu cánh là mở một con đường giải thoát linh hồn khỏi đọa luân hồi.
Con đường cứu cánh tuy được Trời mở ra, nhưng người hành Đạo phải tự giải thoát bằng cách phổ độ chúng sanh, để lập công bồi đức là điều kiện tối yếu của cơ đắc Đạo. Đi phổ độ, người hành Đạo vừa phục vụ chúng sanh, vừa lập vị Thiêng Liêng cho mình.
Cơ cứu thế của Đại Đạo chỉ thuần về mặt Thiêng Liêng.
Giáo lý:
Về mặt luân lý:
Đạo Cao Đài nhắc nhở người ở đời những bổn phận đối với mình, đối với gia đình, đối với xã hội là một gia đình lớn hơn, đối với nhơn loại là một gia đình đại đồng.
Về mặt triết lý:
Đạo Cao Đài khuyên nên khinh thường danh lợi, quyền tước, tránh những xa hoa phù phiếm. Tóm lại, là giải thoát mọi ràng buộc về thể chất để cầu hoàn toàn hạnh phúc cho tâm hồn.
Về mặt tín ngưỡng:
Đạo Cao Đài dạy tôn sùng Đức Thượng Đế là Đấng hóa sanh muôn vật, Đức Diêu Trì Kim Mẫu chủ về phần âm và tin tưởng các Đấng Thiêng Liêng cao thượng được liệt vào hàng Tam thừa Cửu phẩm siêu hình, Đạo Cao Đài duy trì sự thờ phượng tổ tiên, nhưng cấm dùng cúng phẩm huyết nhục và đốt giấy tiền vàng bạc, giấy áo quần và đồ mã v.v...
Đạo Cao Đài cũng dạy tin có linh hồn bất diệt, có luân hồi quả báo là cơ thưởng phạt của công bình Thiên Đạo.
Đạo Cao Đài không nghịch với bất câu tôn giáo nào, vì quan niệm rằng tất cả tôn giáo do một gốc mà ra.
Về mặt công truyền:
Đạo Cao Đài dạy trì trai thủ giới, lánh dữ làm lành, biết bổn phận công dân trong nước, bổn phận người trong khuôn viên đạo đức.
Về mặt tâm truyền:
Đạo Cao Đài giảng giải những yếu lý về hình nhi thượng học và phương pháp tu luyện đến chỗ minh tâm kiến tánh.
Đạo Cao Đài cũng mật truyền Bí pháp nhờ đó mà linh hồn được siêu thăng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ LÀ GÌ?
Đại Đạo là nền Đạo lớn khai lần thứ ba để cứu độ Nhơn sanh khắp cả nhơn gian.
Có Tam Kỳ Phổ Độ, tức phải có Nhất kỳ và Nhị kỳ phổ độ.
Vậy xin lược giải dưới đây:
Sách có câu: “Thiên Địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ” Nghĩa là: Trời Đất xây vần giáp vòng thì trở lại lúc khởi đầu.
Cuộc tuần hoàn vẫn có thứ tự. Kể theo thời gian thì hết ngày sang đêm rồi hết đêm trở lại ngày. Tính theo thời tiết, thì hết xuân sang hạ, hết hạ sang thu, hết thu sang đông rồi hết đông trở lại xuân.
Cuộc tuần hoàn của Vũ Trụ gồm có ba Nguơn: Thượng Nguơn, Trung Nguơn và Hạ Nguơn.
Thượng Nguơn là Nguơn Tấn hóa, Nguơn gầy dựng Kiền khôn Vũ Trụ. Nhơn loại bấy giờ còn giữ Thánh đức của Thượng Đế ban cho, nên còn thuần chất phác thiện lương, cứ thuận tùng Thiên lý mà hòa hiệp dưới trên, tương thân tương ái. Đó là thời đại Thái bình, tức là nguơn Thánh đức, nguơn Vô tội.
Lần lần con người vì nhiễm hồng trần phải lu lờ Thánh Đức, bỏ Thiên Lý mà sa vào nhơn dục.
Vì vậy, Thượng Đế mới khai Tam Giáo phổ độ chúng sanh bỏ dữ về lành, tức là “Nhất Kỳ Phổ Độ”.
Các vì Giáo chủ là:
- Nhơn Đạo : Văn Tuyên Đế Quân.
- Tiên Đạo : Hồng Quân Lão Tổ.
- Phật Đạo : Nhiên Đăng Cổ Phật.
Được tạo hóa, nhơn loại tất phải tấn hóa. Tấn hóa phải tranh đấu. Tranh đấu tất phải tự diệt. Đó là thời kỳ Trung nguơn tức là nguơn Tấn hóa, nguơn Tranh đấu, nguơn Tự diệt.
Cho nên Thượng Đế thiết “Nhị Kỳ Phổ Độ”.
- Nhơn Đạo có Khổng Tử cảnh tỉnh nhơn tâm đặng duy trì đạo đức.
- Tiên Đạo có Lão Tử dìu dẫn nhơn sanh ra khỏi vòng thấp hèn vật chất mà xu hướng về chỗ tinh thần cao thượng.
- Phật Đạo có Thích Ca truyền bá chủ nghĩa từ bi tránh cho nhơn sanh cái nạn tự diệt.
Không tự diệt, tức bảo tồn. Hạ nguơn tức là nguơn bảo tồn vậy.
Vì lẽ bảo tồn, nên ngày nay Hạ nguơn hầu mãn, Thượng Đế dùng huyền diệu cơ bút lập “Tam Kỳ Phổ Độ”. Lại cũng bởi Hạ Nguơn là Nguơn cuối cùng, Đại Đạo quy nguyên phục nhất theo lẽ tuần hoàn. Vậy mới có cái Tôn chỉ: “Tam Giáo quy nguyên, Ngũ Chi hiệp nhất”.
THÁNH DANH CAO ĐÀI
Hai kỳ trước, Đức Thượng Đế phân tánh giáng sanh lập Đạo Ngài có dạy:
“Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã,
“Thích Ca Mâu Ni thị Ngã,
“Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã,
“Kim viết Cao Đài."
Tam kỳ Phổ Độ nầy, Đức Chí Tôn không giáng thế với xác phàm như hai kỳ trước, lại dùng huyền diệu cơ bút giáng điễn linh lập Đạo. Vậy Đức Giáo Chủ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (gọi tắt Đạo Cao Đài) là Đấng siêu hình, tức Thượng Đế.
Ngài lấy Thánh danh: Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Thánh danh này hàm xúc cái ý nghĩa Tam Giáo quy nguyên hiệp nhất.
Cao Đài: Là cái Đài Cao ở tận ngôi Thái Cực, Đài ngự của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế chỉ về Nho giáo, vì Nho giáo gọi Thượng Đế là Thái Cực.
Trong sách “Ấu Học Tầm Nguyên” lại giải rằng: “Đầu thượng viết Cao Đài”
Tiên Ông: Chỉ về Tiên giáo.
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát: chỉ về Phật giáo.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy rằng:
“Các con nghe!
Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi Nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ, thế thường phải để mình vào phẩm tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhượng là thế nào? Vì vậy mà nhiều kẻ môn đệ của Thầy cho Thầy là nhỏ.... cười....
Hạnh khiêm nhượng là hạnh của mỗi đứa con phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhường sao cho bằng Thầy, Thầy lại nói, buổi lập Thánh Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu đến nhọc công Thầy.
Ấy vậy các con rán độ kẻ tội lỗi, là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết."
TẠI SAO THƯỢNG ĐẾ KHÔNG PHÂN TÁNH
GIÁNG TRẦN LẬP ĐẠO NHƯ HAI KỲ TRƯỚC
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ phải phổ biến khắp năm Châu, độ rỗi chúng sanh thoát nạn luân hồi, nhất là phải độ tất cả 92 ức nguyên nhân quy hồi cựu vị.
Nguyên từ khai thiên lập địa, Đức Chí Tôn cho 96 ức nguyên nhân giáng trần khai hóa chúng sanh, song mấy vị ấy lại sa đắm hồng trần quên cả cựu vị của mình.
Nhất Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ chỉ độ được 4 ức nguyên nhân, Tam Kỳ Phổ Độ lại phải độ tới 92 ức. Xem đó đủ biết Tam Kỳ Phổ Độ lớn lao quan trọng dường nào.
Vì chỗ lớn lao quan trọng ấy, Đức Chí Tôn không mượn xác phàm lập Đạo, vì hễ mang nặng xác phàm, thì sự xê dịch từ xứ này tới xứ khác để truyền giáo lấy làm bất tiện, lại cũng không tránh khỏi lỗi lầm chẳng nhiều thì ít. Sự truyền bá Đạo Trời vì thế mà khó phổ thông; còn dùng huyền diệu cơ bút, Đức Chí Tôn có thể trong một lúc giáng điễn khắp nơi mà dạy Đạo.
NHỮNG BẰNG CỚ CHỨNG TỎ
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ DO ĐỨC THƯỢNG ĐẾ LẬP RA
I.- Trong mấy năm đầu khai Đạo, Đức Chí Tôn có ban cho đàn anh chúng ta nhiều huyền diệu nhờ đó Đạo bành trướng rất mau và gây được một đức tin cứng rắn.
Hồi Pháp thuộc, Đạo gặp phải nhiều trở ngại, nhiều thử thách mà vẫn lướt qua không mấy khó. Đó là nhờ sức hộ trì của Đức Thượng Đế, Đức Phật Mẫu và Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Và trải qua mấy năm binh lửa, Đạo tuy phải nhiều phen điên đảo nhưng rốt cuộc, chẳng những cứu vãn được thanh thế buổi đầu, mà mối chơn truyền lại còn phổ biến khắp nơi.
Nếu chẳng phải là Đạo của Trời lập ra, thử hỏi người phàm ai làm được?
II.- Các vị Giáo Chủ thời xưa cũng có tiên tri về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
a.- Sách Phật Tông Nguyên Lý có nói:
Khi Đức Thích Ca sắp Nhập Niết Bàn, đệ tử yêu quý nhứt của Ngài là A Nan Da “Phiên âm là Ất Nan” rơi lụy hỏi Ngài: “Khi Tôn Sư viên tịch rồi, ai dạy bảo chúng con? Ngài đáp: “Ta chẳng phải là vị Phật đầu tiên hay vị Phật cuối cùng giáng thế. Ngày giờ đến, sẽ có vị Phật khác xuất hiện cứu đời, một vị Chí Thánh, một vị Đại Giác cực kỳ cao thượng, một vị dẫn Đạo vô song của nhơn loại: Một vị Chúa Tể cả Thần Thánh và nhơn loại, Đấng ấy sẽ truyền lại cho các con một mối Đạo vinh diệu về buổi sơ khai, vinh diệu về buổi thạnh hành, vinh diệu vào buổi kết cuộc. Đấng ấy sẽ đề xướng một đời sống đạo đức hoàn toàn và thuần khiết."
Phụ chú: Vị Phật mà Đức Thích Ca đã nói tiên tri, theo Phật giáo là Đức Di-Lạc, chúng ta tin chắc Đức Di- Lạc của Phật giáo và Ngôi Ba của Thiên-Chúa giáo vốn là một Đấng Chí Tôn và đúng theo những lời tiên tri ấy, Người đã đến trong lúc Tam Kỳ Phổ Độ này với danh hiệu Cao Đài.
b.- Đức Giê-Su đã phán:
“Nếu các con kính mến ta, các con hãy nhớ những lời ta dạy bảo. Ta sẽ xin Cha Ta sai Đấng cứu khổ giáng trần và ở luôn với các con. Đó là Thần Chơn Lý mà hiện giờ các con chưa thể gặp được Đấng ấy sẽ độ dẫn các con và ở nơi Tâm linh của các con.
Đó là Ngôi ba, ngôi Thánh Thần, mà vì Ta, Cha Ta sẽ sai xuống thế. Đấng ấy sẽ dạy các con đủ điều và sẽ nhắc lại các con những điều Ta đã dạy các con rồi”. (Kinh Phúc-Âm theo Thánh Jean, chương XIV).
PHỤ LỤC: Trong sách Khải Huyền của Thánh Giăng (Apoea lypse de Jean) có bức thư của Đức Chúa Giêsu dạy ông viết gởi cho Hội Thánh Sạt-Đe ( ) như vầy:
THƠ CHO HỘI THÁNH SẠT ĐE
Người cũng hãy viết cho Thiên sứ của Hội Thánh Sạt-Đe rằng:
Nầy là lời phán của Đấng có bảy vị thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao: Ta biết công việc ngươi, ngươi có tiếng là sống nhưng mà là chết.
Hãy tỉnh thức, và làm cho vững sự còn lại là sự hãy chết vì ta không thấy công việc của ngươi là trọn vẹn trước mặt Đức Chúa Trời ta.
Vậy hãy nhớ lại mình đã nhận và nghe Đạo thế nào thì giữ lấy và ăn năn đi. Nếu ngươi chẳng tỉnh thức, ta sẽ đến như kẻ trộm và ngươi không biết giờ nào ta đến bắt ngươi thình lình.
Nhưng ở Sạt-Đe ngươi còn có mấy người chưa làm ô uế áo mình, những kẻ đó sẽ mặc áo trắng mà đi cùng ta vì họ xứng đáng như vậy.
Kẻ nào thắng, sẽ được mặc áo trắng như vậy. Ta sẽ không xóa tên người khỏi sách sự sống và sẽ nhận danh người trước mặt cha ta, cùng trước mặt các thiên sứ Người.
Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội Thánh.
***
Đạo Minh Sư bên nước Trung Hoa sáng lập hồi đời nhà Thanh, có hai câu sấm do các vị Tổ Sư lưu lại. Hai câu đối này tiên tri về Đạo Cao Đài và được nêu lên ở bìa kinh điển của Đạo này.
Cao như Bắc khuyết Nhơn chiêm ngưỡng,
Đài tại Nam-phương Đạo thống truyền.
Đài tại Nam-phương Đạo thống truyền.
Nghĩa là Đạo cao như Bắc khuyết, người ta ngước mặt lên mà kính mến.
Đạo liên tục truyền bá không ngừng, mà nơi phát sanh ra Đạo là Phương nam (ám chỉ nước Việt Nam).
***
Trong một quyển kinh xưa (Giác Thế Kinh) có bốn câu tiên tri về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ như vầy:
“Thánh, Hiền, Tiên, Phật hi hữu chi nhơn.
Tam Kỳ Phổ Độ hi hữu chi sự.
Phi hi hữu chi nhơn.
Yên năng hành vi hi hữu chi sự?"
Tam Kỳ Phổ Độ hi hữu chi sự.
Phi hi hữu chi nhơn.
Yên năng hành vi hi hữu chi sự?"
Nghĩa là:
Thánh, Hiền, Tiên, Phật là bậc ít có.
Cũng như Tam Kỳ Phổ Độ là việc ít có.
Không phải là bậc ít có há làm được việc ít có hay sao?
TẠI SAO TA THỜ ĐỨC THƯỢNG ĐẾ
BẰNG THÁNH TƯỢNG THIÊN NHÃN
Đức Thượng Đế là Đấng toàn năng, toàn tri, vô cùng siêu việt, trí phàm không thể tưởng tượng được cái tinh thể ra sao, nhưng chúng ta tin tưởng Ngài, thì chủ lấy cái động thể của Ngài mà căn cứ cho sự tin tưởng của ta.
Đạo tuy vô hình nhưng phải tạo ra hữu vật để phô bày cái dụng mà thiệt hành cái thể.
Về hình thức Thánh Thượng Thiên Nhãn chỉ là một biểu hiện tôn kính, một tượng trưng tôn giáo thôi.
Nhưng xét về tinh thần, thì lại có nhiều ý nghĩa sâu xa.
Trong Thánh Huấn ngày 25 tháng 2 năm 1926 Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng:
"... Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng "Con Mắt" mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh.
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả, Ngã giả.
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả, Ngã giả.
"Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy Thầy cho "Thần" hiệp "Tinh-Khí" đặng hiệp đủ "Tam Bửu" là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
"... Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, từ ngày bị bế Đạo, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên Đình mỗi phen đánh tản Thần không cho hiệp cùng Tinh Khí.
"Thầy đến đặng huờn nguyên chơn thần cho các con đắc Đạo. Con hiểu "Thần cư tại Nhãn". Bố trí cho chư đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên con mỗi phen nói Đạo, hằng nhớ đến danh Thầy".
Vả chăng, con mắt là chủ thị quan, tức là biểu hiện sự quan sát cái tâm thức của mình cho thiệt tinh vi, đặng lo đoạn tuyệt tam nghiệp, lục căn mà trở về nguyên bổn.
Lại nữa, hồi Nhất Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn giáng sanh lập Đạo lại mang lấy xác phàm, nên phải thờ Người bằng cốt Tượng, Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn chỉ dùng huyền điệu cơ bút mà dựng nên chánh giáo, ấy là một cuộc bán hữu hình, nên thờ Đức Chí Tôn bằng Thiên Nhãn, cũng là cách thờ phượng bán hữu hình đó vậy.
TẠI SAO CHỈ THỜ MỘT THIÊN NHÃN THÔI
Chúng ta thờ Thượng Đế bằng con Mắt phía tả vì tả thuộc Dương mà Đức Thượng Đế chủ về Chơn Dương hay Thái Dương, cũng như Đức Diêu Trì Kim Mẫu chủ về Chơn Âm hay Thái Âm.
Thờ một Thiên Nhãn vì Một là tuyệt đối, Một là duy nhất có nghĩa là: Chơn lý vốn Một thôi, đời đời kiếp kiếp con người cứ do một lẽ “Thiên lý lưu hành” là Tôn chỉ bất di bất dịch.
Chủ đích của Đại Đạo là gồm các tôn giáo về Một, vứt bỏ những tin tưởng ở chỗ tiểu dị mà chú trọng ở chỗ tín ngưỡng đại đồng mới biết nhìn nhận, nguồn cội của Vũ Trụ là cái bổn thể độc Nhất vô nhị của Đạo, tức Đấng Tạo Hóa.
Vả lại, chỗ lập thuyết của Tam Giáo đều căn cứ ở số Một ấy.
- Đạo Phật thì “Vạn pháp qui Nhất” nghĩa là muôn phép đều gom về Một.
- Đạo Tiên thì “Bảo nguơn thủ Nhứt” nghĩa là giữ Nguơn khí cho đặng Một.
- Đạo Nho thì “Duy tinh duy Nhứt” nghĩa là học Đạo lý cho tinh giữ tâm chí cho đặng Một.
Xem thế đủ biết Tam Giáo đều chỉ Một chơn lý mà thôi. Vậy thờ Một Thiên Nhãn là tượng trưng cái số Một ấy.
HỘI THÁNH
Theo chánh thể của Đức Chí Tôn đã ấn định trong “Pháp Chánh Truyền”, Đại Đạo đại diện bởi một đoàn thể gọi Hội Thánh.
Hội Thánh là một nhóm lương sanh của Đức Chí Tôn tuyển hiệp làm một. Đức Chí Tôn đã dùng quyền Thiêng Liêng dạy dỗ, trước un đúc nơi lòng làm một khiếu từ bi, cho tâm địa có tình ái vật ưu sanh, để làm lợi khí phàm tục mà độ rỗi người phàm tục.
Đức Chí Tôn đã dùng huyền diệu cơ bút dạy dỗ từng người cho có tư cách đứng ra hành Đạo.
Hội Thánh có hai phần tại thế:
1.- Phần hữu hình: là Cửu Trùng Đài thuộc Đời tức là xác của Đạo.
2.- Phần bán hữu hình: là Hiệp Thiên Đài, nửa Đời nửa Đạo tức là chơn thần của Đạo.
Về vô vi: Có Bát Quái Đài thuộc Đạo, tức là Hồn của Đạo vậy, xác nhờ chơn thần mà liên lạc với Hồn, thì Cửu Trùng Đài cũng nhờ Hiệp Thiên Đài mà thông công với Bát Quái Đài.
Ba Đài cần phải có đủ thì Đạo mới được toàn thể.
CỬU TRÙNG ĐÀI
Cửu Trùng Đài là Tòa ngự của Chức Sắc Thiên Phong, đối hàm với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Cửu Trùng Đài là hình trạng Cửu Trùng Thiên, Cửu phẩm Thần Tiên vâng mạng lịnh cầm quyền trị thế, thì Cửu Trùng Đài cũng vưng mạng lịnh cầm quyền quản trị Đạo nơi tay.
Tất cả chơn linh trong càn khôn thế giới phải vào Cửu Trùng Đài đặng đoạt giả trạng sắp đặt nơi ấy mới mong lập Thiên vị mình.
Chẳng vào cửa Đạo hiệp với Cửu Trùng Đài thì chẳng còn đi đường nào khác mà vào Cửu Trùng Thiên cho đặng.
Cửu Trùng Đài do Giáo Tông chưởng quản dưới quyền có: Ba Chưởng Pháp, Ba Đầu Sư, Ba mươi sáu Phối Sư (trong số này có Ba Chánh Phối Sư) bảy mươi hai Giáo Sư và ba ngàn Giáo Hữu.
Tỷ số này chiếu theo Thiên thơ phải có Nhất Phật, Tam Tiên, Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị Hiền, Tam Thiên Đồ Đệ chưởng quản cơ quy “Tam Giáo Ngũ Chi” hiệp Nhất.
Từ Chưởng Pháp đổ xuống Chức Sắc Cửu Trùng Đài chia làm ba phái là:
1- Phái Thái: về Phật giáo mặc Thiên phục màu vàng.
2- Phái Thượng: về Tiên giáo mặc Thiên phục màu xanh.
3- Phái Ngọc: về Khổng giáo mặc Thiên phục màu đỏ.
Chức Sắc nữ phái chỉ tới bực Đầu Sư, Chức Sắc nữ phái mặc thiên phục toàn màu trắng và không chia làm ba phái như bên nam. Chức Sắc nữ phái vốn có quyền tương đương với đồng đẳng nam phái, song phải dưới quyền chưởng quản của Giáo Tông.
Lễ Sanh (Nam và Nữ) là hạng Chức Sắc để lo việc lễ, chưa đứng vào Hội Thánh.
Nhiệm vụ của Chức Sắc Cửu Trùng Đài đều quy định trong “Pháp Chánh Truyền” và “Tân Luật”.
Chú ý: Ba vị Chưởng Pháp vốn Chức Sắc của Hiệp Thiên Đài bổ qua Cửu Trùng Đài cũng như Thượng Phẩm và Thượng Sanh là Chức Sắc của Cửu Trùng Đài bổ qua Hiệp Thiên Đài, ấy là Dương Nội Hữu Nhất Âm, Âm Nội Hữu Nhất Dương.
HIỆP THIÊN ĐÀI
Hiệp Thiên Đài là nơi chuyên về Đạo pháp bảo hộ luật đời và luật Đạo. Hiệp Thiên Đài nắm luật lệ như Ngọc Hư Cung nắm Thiên Điều.
Hiệp Thiên Đài tức là hình trạng Ngọc Hư Cung tại thế.
Hiệp Thiên Đài do Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm, Hiệp Thiên Đài gồm có ba chi: Chi Pháp, Chi Đạo và Chi Thế.
Hộ Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Đài kiêm chỉ huy Chi Pháp dưới có: Bảo Pháp, Hiến Pháp, Khai Pháp và Tiếp Pháp.
Chi Pháp lo bảo hộ pháp luật trong Đạo, chẳng ai hành động qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết.
Thượng Phẩm chỉ huy chi Đạo dưới có Bảo Đạo, Hiến Đạo, Khai Đạo và Tiếp Đạo.
Chi Đạo lo về phần Đạo nơi các Tịnh Thất và Thánh Thất xem sóc và bênh vực chư môn đệ của Đức Chí Tôn.
Thượng Sanh chỉ huy chi Thế, dưới có: Bảo Thế, Hiến Thế, Khai Thế và Tiếp Thế.
Chi Thế lo bảo hộ chư môn đệ của Đức Chí Tôn về phần đời.
Mười hai vị Bảo, Hiến, Khai, Tiếp gọi là “Thập Nhị Thời Quân” đối hàm với “Thập Nhị Thời Thần”.
Hiệp Thiên Đài còn có “Thập Nhị Bảo Quân” tức là Hàn Lâm Viện của Đạo cùng nhiều Chức Sắc phụ thuộc khác như: Luật Sự, Sĩ Tải,...
Trên đây là sở dụng phàm trần của Hiệp Thiên Đài.
Về sở dụng Thiêng Liêng, Hiệp Thiên Đài là nơi Đức Chí Tôn và chư Tiên Phật đến tiếp xúc với Hội Thánh, hễ Đạo còn, Hiệp Thiên Đài vẫn còn. Điều hệ trọng là nếu không có Hiệp Thiên Đài thì Đạo không có xuất hiện. Trời Đất qua, chớ Đạo không qua, nhân loại tuyệt chứ Hiệp Thiên Đài chẳng tuyệt.
Hiệp Thiên Đài lại là nơi Giáo Tông đến thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giới, Lục Thập Thất Địa Cầu và Thập Điện Diêm Cung mà cầu siêu cho nhân loại.
Ba Chi trên của Hiệp Thiên Đài: Thế, Pháp, Đạo tượng trưng ba giai đoạn tấn hóa của phép tu, ai tu đúng theo luật, hành theo pháp mới được thế nhân ca tụng công đức mình, ấy là Đắc Thế.
Đắc Thế rồi còn phải tầm Chơn Pháp đặng cứu chữa, dạy dỗ nhơn sanh đúng theo Tâm Pháp, nếu mình Hành Pháp được hiển linh thì nhơn sanh ngưỡng mộ, ấy là Đắc Pháp.
Đắc Pháp rồi phải tầm hiểu chỗ nhiệm mầu của Đạo vô vi để tự giải thoát luân hồi, ấy là Đắc Đạo.
BÁT QUÁI ĐÀI
Bát Quái Đài tại Tòa Thánh là nơi thờ phượng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Chức Sắc và Tín Đồ qui vị cho trọn phép Trời Người hiệp Nhất.
Các Đấng Thiêng Liêng thờ phượng nơi Bát Quái Đài là các vị Giáo Chủ của Tam Giáo, Ngũ Chi, cùng các vị thay mặt tôn giáo mà hành Đạo trong buổi “Tam Kỳ Phổ Độ” cho nên cách thờ phượng sắp đặt nơi đây chủ về ý nghĩa Tam Giáo quy nguyên, Ngũ Chi hiệp nhất.
Đã nói Bát Quái Đài là Hồn Đạo mà Đức Chí Tôn vẫn nắm phần Hồn và làm chủ Bát Quái Đài, thì Đạo chẳng khi nào còn chịu dưới quyền phàm nữa, cho nên Đức Chí Tôn đã nói: “Không chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa” là vậy.
Cơ mầu nhiệm của Đạo là do chỗ Đức Chí Tôn mở cửa Bát Quái Đài cho các chơn linh đã tự mình lập vị nơi Cửu Trùng Đài vào tận Bát Quái Đài mà hiệp một cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Cửu Trùng Đài chỉ cách Bát Quái Đài có một cánh cửa như Niết Bàn cách phàm trần có một xác thân. Cánh cửa ấy nay đã mở thì cơ đắc Đạo tại thế đã mở ra rồi vậy.
Cửu Trùng Đài lo phần độ rỗi chúng sanh, thì Bát Quái Đài lo phần siêu rỗi.
Cửu Trùng Đài: do pháp luật mà hành Đạo đặng độ rỗi chúng sanh.
Hiệp Thiên Đài: lo bảo tồn pháp luật. Về sở dụng Thiêng Liêng.
Bát Quái Đài: nắm Thiên điều làm cân thưởng phạt Thiêng Liêng.
1.- Cửu Trùng Đài: là ngôi vị Thánh, Thần, Tiên, Phật của Đức Chí Tôn sắp sẵn tại thế cho Chức Sắc Thiên Phong cũng như bổn Đạo đoạt thủ. Cửu Trùng Đài tức là Cửu Trùng Thiên tại thế.
2.- Hiệp Thiên Đài: là Thiên môn mở rộng ra rước cả nguyên nhơn trở về cựu vị, và giúp cho cả hóa sanh đến tranh đoạt phẩm vị Thiêng Liêng ấy là cái ngỏ hiệp các chơn linh trong toàn thế giới.
Hiệp Thiên Đài là Ngọc Hư Cung tại thế.
3.- Bát Quái Đài: là tòa ngự của Thần, Thánh, Tiên, Phật dưới quyền chưởng quản của Đức Chí Tôn tức là Thiên Triều, là Bạch Ngọc Kinh tại thế.
TÔN CHỈ CỦA ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Quy Tam Giáo, Hiệp Ngũ Chi. Qui hiệp để làm gì? Để chung hiệp nhau mà phổ độ chúng sanh.
Đành rằng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có giáo lý và tâm pháp mật truyền riêng, nhưng tôn chỉ là quy Tam Giáo hiệp Ngũ Chi nên lý thuyết có một phần rút trong tinh ba của lý thuyết các tôn giáo, cốt để thực hành cái tôn chỉ ấy. Vì vậy mà dung hòa và nạp dụng những giáo lý bất câu của Đạo nào đã được công nhận là chơn lý, vì chơn lý chỉ có một mà thôi. Đồng thời Đại Đạo có trách nhiệm thuyết minh những lý thuyết đã bị người đời hoặc vì canh cải hoặc vì hiểu lầm mà sai biệt chơn truyền.
Thực hành tôn chỉ “Qui nguyên phục Nhất” là thừa nhận các tôn giáo đều một gốc mà ra, đều tôn sùng một Đấng Chúa Tể tức Ông Cha chung, mặc dù mỗi nước vì khác ngôn ngữ mà xưng tụng bằng danh hiệu khác nhau.
Đức Chí Tôn đã dạy:
“Nhiều đạo cũng như cái nhà, phải có nhờ nào là cột cái, nào là cột con, đòn tay, kèo, rui. Rui là nhỏ, mỏng mảnh hơn hết, mà cũng phải nhờ nó, tuy là kể cho nhiều tên, chớ cất rồi thì có một chủ ở mà thôi”.
CHỦ NGHĨA CỦA ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Hai yếu điểm của chủ nghĩa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Bác Ái và Chí Thành.
Đức Chí Tôn đã dạy:
“Đạo gốc tại lòng bác ái và chí thành”
Bác Ái: Là lòng đại từ đại bi thương xót sanh linh hơn thân mình cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ như mẩy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Đất.
Còn Chí Thành là lòng thành thật đem đến cực điểm mà đối đãi ngoài đời và trong đạo.
Lòng bác ái của Đức Khổng Tử gốc ở điều Nhân mà Đạo Nhân thì lấy sự thương yêu làm trọng.
Ở Chúa Giêsu lòng bác ái không hạn chế ở sự giúp đỡ, ban phước và giải nạn, mà còn tự đem mình chịu khổ trên Thập Tự Giá để cứu chuộc tội lỗi cho chúng sanh.
Lòng bác ái của Đức Chí Tôn vốn không tận cùng như Người đã dạy sau đây:
“... Các con đủ hiểu rằng: Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận."
Trong một Thánh giáo khác, Đức Chí Tôn lại dạy:
“Thầy thường nói với các con rằng Thầy là cha của sự yêu thương, Do bởi thương yêu, Thầy mới tạo thành thế giới và sanh dưỡng các con.
Vậy thì các con sản xuất nơi sự yêu thương, các con là cơ thể của sự yêu thương.
Ấy vậy, sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới. Bởi sự yêu thương mà vạn loại hòa bình, càn khôn an tịnh, mới không thù nghịch nhau. Không thù nghịch nhau, mới không tàn hại nhau. Không tàn hại nhau, mới giữ bền cơ sanh hóa.
Còn kẻ nghịch cơ sanh hóa là gì?
- Là Quỷ Vương đó, Quỷ Vương vốn là tay diệt hóa. Cũng như có sống của Thầy ắt phải có chết của Quỷ Vương.
Quỷ Vương lấy cơ thể nào để tàn hại các con?
- Ấy là sự ghét vì ghét nhau vạn loại mới nghịch lẫn nhau, nghịch lẫn nhau mới tàn hại lẫn nhau, mà tàn hại lẫn nhau là cơ diệt thế.
Vậy Thầy cấm các con từ đây, nếu không đủ sức thương yêu thì cũng chẳng đặng ghét nhau”.
Tóm tắt bài Thánh giáo này chúng ta có thể nói:
Thương người, thương vật là gần Trời,
Ghét người, ghét vật là gần Quỷ Vương.
TẠI SAO CHÚNG TA THƯƠNG CẢ NHƠN LOẠI
Trên mặt địa cầu nhơn loại sở dĩ chia ra thành nhiều giống là bởi phong thổ cùng khí hậu mỗi xứ khác nhau, song chỉ khác về hình thức thôi, nhưng về Thiêng Liêng thì ai cũng thọ của Thượng Đế một điểm linh quang (Hồn) nhờ đó mà sanh sống, mà tri giác. Thế thì cả nhân loại đều là con một cha. Là con một cha, tất phải thương yêu nhau mới phải Đạo, song ngày nào còn thấy nhân loại dùng binh lực để xô xát lẫn nhau, ngày nào còn thấy sức mạnh đè ép sức yếu, ngày ấy thế giới hòa bình chỉ là cái không tưởng mà thôi. Phải đi sâu vào tâm hồn người để tìm cội rễ của sự trạng ấy: tánh ích kỷ, lòng tham dục, óc tranh đấu, chiếm đoạt và cái quan niệm sai lầm về danh lợi chính là bao nhiêu động lực xô đẩy loài người vào cuộc cắn xé lẫn nhau.
Từng ấy, bản năng không thể dùng võ lực đàn áp được. Cần có một nền luân lý, một tôn giáo cao thượng cảm hóa được lòng người và gieo vào đây chút tình bác ái.
Bác ái là nền tảng của một tôn giáo chơn chánh. Tôn giáo tức là tình thương nhân loại vì thương nhân loại tôn giáo mới phục vụ nhân loại, mới lo cứu rỗi linh hồn của nhơn loại.
Thật tế mà nói, chúng ta không thể thương tất cả mọi người cùng một mức độ. Sự thương yêu phải khởi từ thân đến sơ, từ gia đình đến làng mạc, từ làng mạc đến quốc gia, từ quốc gia đến quốc tế. Vả lại có người ta vừa gặp mặt là thấy không thể nào ta có thiện cảm được. Có người vừa thấy là ta muốn tránh xa, lại cũng có người tánh tình hung tợn, nói năng thô bỉ mà đối với họ ta càng phải dè dặt từng chút. Nhưng đó có phải là lý do chính đáng cho chúng ta nếu thiếu tình thương yêu với họ chăng? Không. Dầu sao, họ với chúng ta cũng vốn là con một cha. Họ là những người hoặc thiếu giáo dục, hoặc đã chịu ảnh hưởng xấu của hoàn cảnh, hoặc lúc ấu thơ không được hưởng tình yêu đầm ấm của gia đình. Nhưng trong tâm hồn họ bao giờ cũng tiềm tàng một điểm thiên lương. Hãy đánh thức điểm thiên lương ấy, họ sẽ là người khả ái.
Đấy là việc phải làm của những Chức Sắc lãnh sứ mạng phổ độ chúng sanh. Mà phổ độ tức là cụ thể hóa tình thương yêu nhân loại vậy. Tình thương minh mông như trời biển, bao gồm vạn vật, cũng như ánh thái dương soi ấm vạn vật mà chẳng sót vật nào.
Thương yêu nhân loại, tức là thể theo đức háo sanh của Thượng Đế. Mọi hành vi của bậc chơn tu đều thấm dần đạo đức. Hành vi ấy chẳng những do bổn phận mình sai khiến, mà còn để tình thương ấy đối với Thượng Đế.
Cũng như con thảo không làm điều quấy, không phải vì điều ấy quấy, mà vì không muốn trái với cha mẹ, cho nên lòng tín ngưỡng tôn giáo, cũng như lòng hiếu thảo, có một ảnh hưởng hiệu nghiệm và cứu rỗi về tinh thần.
Đức Chí Tôn có dạy:
“Sự thương yêu là giống bảo sanh của càn khôn, thế giới bởi sự yêu thương yêu mà vạn loại hòa bình, càn khôn an tịnh, đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, không thù nghịch lẫn nhau mới không tàn hại nhau, không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh hóa”.
Tình thương! giản dị thay danh từ ấy! mà cũng lớn là hữu ích thay! Vì tình thương là nguồn hạnh phúc, là cơ cấu hòa bình, Nhưng thiếu tôn giáo để làm nền tảng thì tình thương chỉ là một danh từ rỗng tuếch.
CỨU CÁNH CỦA ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Đức Chí Tôn lập Đạo cứu cánh là mở cho nhân loại con đường giải thoát luân hồi, tức là con đường công quả, mà tất cả người Đạo, từ tín đồ đến Chức Sắc phải noi theo đặng lập công bồi đức bằng cách quên mình phổ độ chúng sanh.
Đức Chí Tôn đã dạy:
“Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng, tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn.... Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình, thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ.”
Đức Chí Tôn còn buộc mỗi Tín Đồ phải độ ít nhất là 12 người vào Đạo.
Nếu có ai cắc cớ hỏi: “Người đi phổ độ lập công quả, rủi nửa chừng chết đi, thì cơ đắc Đạo lấy đâu mà chứng chắc?”.
Xin đáp: “Phẩm vị Thiêng Liêng vốn có nhiều đẳng cấp là: Thần, Thánh, Tiên, Phật. Chúng ta do công tu mà tiến lên đẳng cấp ấy. Công tu nhiều, tức đắc quả cao, công tu ít tức đắc quả thấp, không một mảy nào sai chạy. Nếu công tu của mình vì chết nửa chừng mà mất, thì cơ mầu nhiệm tấn hóa không nghĩa lý gì, mà cán cân công bình Thiên Đạo cũng hóa ra chinh lệch. Phương chi Đức Chí Tôn đã chỉ rõ điều kiện đắc quả cho chúng ta biết, thì chúng ta cứ vững lòng hành Đạo theo Thiên mạng và Thiên chức của mình, lo chi không đắc kỳ sở nguyện.
Các bực cao minh trí thức có thể chuyên chú về đường tự giác, lo khảo cứu và học hỏi để tìm hiểu chơn lý nhưng bao giờ cũng lấy công quả làm nền tảng cho việc tu hành, nhất là phải trừ bản ngã, là cái vô cùng trở ngại cho bước đường tiến hóa.
ĐẠI ÂN XÁ
Nơi Tòa phán xét (Nam Tào) từ những tư tưởng, những lời nói cho đến hành vi của con người, nhất thiết đều ghi chép hẳn hòi, cho nên một mảy không bỏ qua, dữ lành đều báo ứng. Luật nhơn quả rất mực công bình, mà cơ hành luật lại càng chặt chẽ.
Thế thì con người ở cõi phàm gian, với những hành động hằng ngày, tránh sao khỏi tội tình nghiệp báo? Tạo nhơn tất phải thọ quả, con người cứ trả hết rồi vay, thì thế nào thoát nạn luân hồi.
Nhưng mỗi lần khai Đạo là mỗi lần Đức Chí Tôn đại ân xá, nghĩa là ban cho con người biết hồi đầu hướng thiện và lo việc tu hành, một ân huệ lớn lao nghĩa là những tội lỗi của họ đã chồng chất từ mấy kiếp trước được Ơn Trên bôi xóa và cho họ làm một Tân Dân trong cửa Đạo, với một “tư pháp lý lịch” còn trinh bạch. Nhờ vậy người nhập môn hành Đạo mới rảnh nợ tiền khiên, chỉ lo trau dồi đạo hạnh và lập công bồi đức là đắc Đạo trong một kiếp tu.
Hạ nguơn này, Đức Chí Tôn lập Đạo kỳ ba nên mới có Đại Ân Xá kỳ ba.
Phép “giải oan”, phép “cắt dây oan nghiệt” phép “độ thăng” và các phép bí tích khác của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, được đem áp dụng trong sự thi hành luật Đại Ân Xá đó vậy.
CÚNG TỨ THỜI CÓ ÍCH CHO CHÚNG TA NHỮNG ĐIỀU GÌ?
Người không biết Đạo cho rằng cúng kiến là dấu hiệu ỷ lại Thần quyền.
Là người trong cửa Đạo ta đủ kinh nghiệm để tin chắc rằng cúng kiến có một tác dụng rất hay về mặt tinh thần đạo đức. Vì thế mà tôn giáo nào cũng trọng sự cúng kiến.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có định lệ cúng Tứ Thời, Tý Ngọ cúng rượu, vì rượu tượng trưng nguơn khí, mà Tý Ngọ là nguơn khí của Trời Đất hưng thịnh, Mẹo Dậu cúng trà, vì trà tượng trưng nguơn thần, mà Mẹo Dậu là giờ nguơn thần của Trời Đất hưng vượng.
Ở thế kỷ văn minh vật chất này, nhiều sự ồn ào náo nhiệt làm cho đạo tâm xao lảng. Nào là nỗi sớm lo chiều liệu trong đời sống vật chất, nào là cuộc bi thương, hoan lạc, mỗi mỗi đều làm cho người yếu đức tin dễ xa lần mối Đạo. Vậy cần phải có phương pháp nào để nhắc nhở và nâng đỡ con người khỏi thất Đạo. Cái phương pháp thần diệu ấy là cúng Tứ Thời đó vậy.
Cúng Tứ Thời là để khép mình vào khuôn lễ giáo và thanh tịnh kiềm chế con tâm không cho phóng túng để giữ được trạng thái hư không mà chẳng sanh vọng niệm. Càng cúng Tứ Thời, đạo tâm càng phấn khởi.
Thất Nương, một vị Nữ Phật tại Diêu Trì Cung đã dạy:
“Lễ bái thường hành tâm Đạo khởi”.
Câu “Nam mô Phật” nhắc chừng chúng ta phải thành kính tưởng niệm Đấng Toàn Giác mà học tập theo trong muôn một.
Câu “Nam mô Pháp” gợi cho chúng ta cái niệm tưởng về Đạo Pháp hằng phải tuân theo để tu cho đúng cách.
Câu “Nam mô Tăng” nhắc nhở chúng ta phải trọn lòng thành kính với Giáo Hội Tăng Già, tức Hội Thánh, mà những lời chỉ giáo đáng làm khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta noi theo để mỗi ngày tăng cao đạo đức và học vấn của mình.
Bài “Khai Kinh” nhắc cho chúng ta nhớ hằng ngày cái tôn chỉ cao siêu của Tam Giáo “Gốc bởi lòng làm phải làm lành” và câu “Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh” dạy chúng ta trước khi vào chầu Đức Chí Tôn, phải giữ mình hoàn toàn trong sạch, chẳng những trong sạch về thể xác, lại còn trong sạch về tâm hồn. Mà mỗi ngày giữ được bốn lần như thế, không phải là quý hóa lắm sao?
Đức Chí Tôn đã dạy:
“Phải thường hỏi lấy mình khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng? Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa đặng yên tịnh, thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con có lo chi chẳng bì bực Chí Thánh. Thầy mong rằng mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình ấy, thì lấy làm may mắn cho nền Ðạo; rồi các con sẽ đặng thong dong mà treo gương cho kẻ khác...”
Vậy cúng Tứ Thời cũng là phương pháp kiểm soát việc làm hằng bữa để răn lòng sửa tính.
Lại mỗi lần cúng Tứ Thời, chúng ta gom tất cả năng lực của đức tin để tưởng Trời, tưởng Phật, tức là dùng tư tưởng mà cảm thông với Trời Phật và tiếp điễn lành từ trên ban xuống, cho tâm hồn thắm tươi, trong sạch nhẹ nhàng mà ứng hiệp với cơ mầu Tạo Hóa.
Cúng Tứ Thời có ích cho chúng ta sở dĩ là thế.
MƯỜI HAI ĐIỀU TÍN NGƯỠNG CĂN BẢN CỦA ĐẠI ĐẠO
1.- Thượng Đế là Đấng tạo ra Càn Khôn, Vũ Trụ và hóa sanh vạn vật. Nhân loại phải tín ngưỡng kính trọng Thượng Đế và trong các hành động nhất nhất phải tùng Thiên Luật.
2.- Là Đại Từ Phụ, Thượng Đế không bao giờ hành phạt chúng sanh toàn là con cái yêu thương của Người. Nhưng vì phép công bình, Thượng Đế lập luật “Nhơn Quả” làm cân thưởng phạt Thiêng Liêng. Chúng sanh do chỗ hành động mình mà rước lấy hoạ phước.
3.- Lòng từ bi của Thượng Đế không nỡ để chúng sanh không rõ Thiên Điều mà phạm tội nên từ thượng cổ Người đã phân tánh giáng trần lập Đạo đặng dạy dỗ chúng sanh biết điều thiện mà làm, điều ác mà tránh, và dìu dắt bát phẩm chơn hồn tiến hóa lên đến chỗ cực điểm. Nhưng nếu lòng người mê muội, không hồi đầu giác ngộ thì hình phạt phải cam.
4.- Thượng Đế chưởng quản Càn Khôn võ trụ.
5.- Luân hồi là cơ tấn hóa của bát phẩm chơn hồn. Trong mỗi kiếp tái sanh các chơn linh gây ra nghiệp duyên, nên tái sanh buộc phải thọ quả. Vì vậy mà luân hồi và quả báo đi đôi.
6.- Thần, Thánh, Tiên, Phật, trước vốn là người phàm nhờ tu mà đắc quả. Vậy thì tất cả phàm nhơn ai cũng có thể làm Tiên, Phật nếu biết tu, Nhất là gặp “Tam Kỳ Phổ Độ” ban hành luật Đại Ân Xá, chúng sanh được may mắn “tu nhất kiếp, ngộ nhất thời”.
7.- Phàm nhơn là Hồn tại thế. Âm nhơn là Hồn giải thể cho nên Phàm nhơn và Âm nhơn có thể thông công bằng cơ bút, đồng cốt, hoặc phương thế nào khác.
Người tu luyện đến bực cao siêu có thể xuất chơn thần thông công với các Đấng Thiêng Liêng hoặc luyện đắc “Nhãn thông” và “Nhĩ thông” mà thấy và nghe được.
8.- Vật chất tan rã rồi hợp thành một thể khác, duy chơn hồn là trường tồn và tuần tự tấn hóa đến mực cuối cùng là chỗ chí thiện.
9.- Âm nhơn là hồn mới giải thể còn quyến luyến hồng trần, chưa thoát được buồn vui đau khổ, bởi còn mang cái chơn thần là chan chứa tình cảm. Âm nhơn cần có thân nhơn tụng kinh cầu nguyện cho họ được an ủi mà bớt đau khổ.
Kinh Cầu Siêu rất linh nghiệm, vì mỗi tiếng tụng lên vốn có sức rung động huyền diệu vô cùng. Sức rung động đó hiệp với sức tư tưởng mạnh mẽ và thành kính của người tụng kinh gây thành một mãnh lực phi thường, đánh tan chơn thần của Âm nhơn giúp họ mau giải thoát đau khổ và hình phạt Thiêng Liêng.
10.- Con người thọ sanh tại thế đều có số mạng định đoạt, do nghiệp duyên của mình đã tạo ra trong kiếp trước. Cho nên người biết Đạo bao giờ cũng an phận tùy duyên, chẳng vì nghèo túng mà trễ nải việc Đạo.
Nếu con người biết chuyên làm lành lánh dữ cùng tu âm chất trong kiếp dương sanh, thì có thể chuyển hoạ ra phước. Định mạng là Trời, mà lập mạng là ta vậy.
11.- Tân Luật có ảnh hưởng rất lớn lao về Tiên phong Phật sắc của người tu trong Đại Đạo, chẳng giữ “Tân Luật” là trái phép Đạo mà trái phép Đạo không bao giờ vào được Bạch Ngọc Kinh.
12.- Muốn đắc quả, phải dự thi ở trường thi “công quả” nghĩa là phải phổ độ chúng sanh không làm đặng thế này phải tìm thế khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt được phẩm vị Thiêng Liêng.
CƠ KHẢO THÍ
Có trường thi “công quả” tất có “khảo thí” theo phép công bình Thiên Đạo. Phàm muốn đoạt thủ ngôi vị phẩm nơi trường thi ấy, người hành Đạo phải có công lao xứng đáng và phẩm hạnh hoàn toàn. Chịu thử thách mà không sa ngã, mới đáng đăng tên vào Tiên tịch.
Vì lẽ công bình, Đức Chí Tôn buộc phải để cho Ma Vương cám dỗ. Kẻ nào kém đạo hạnh phải sa vào cạm bẫy.
Thường thường chánh tà tương khắc. Hễ Đạo khai thì tà khởi, Đạo không ma khảo, Đạo khó thành. Ma không Đạo khai, ma không được dịp mở cơ thạnh vượng.
Ma khảo có nhiều cách, đại khái như:
1.- Mạo danh Tiên Phật, đòi ban huyền diệu, cốt mê hoặc người phải xa chánh Đạo.
2.- Dục người thấy sắc đẹp mê sa, thấy tài vật ham muốn.
3.- Hóa việc lạ lùng quái gở cho người bỏ dở công phu.
4- Chiều theo sở dục con người mà cám dỗ, tức là đánh ngay chỗ yếu của người.
5.- Bày bố những khó khăn gay cấn cho người thối chí ngã lòng.
Đức Chí Tôn đã cho biết trước:
“... ... ..., chung quanh các con, dầu xa, dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp; chúng nó chẳng hề thấy đặng, là đạo đức của các con.
Ấy vậy rán gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy.
Nghe và rán tuân theo.”
Đường đã trải qua, chúng ta thấy rõ tu hành gặp không biết bao trở lực. Nào là người hữu ý hay vô tình kích bác, cho đến bà con cật ruột cùng bạn thân yêu buổi trước, mà nay thấy chúng ta tu hành, họ cũng đem lòng nhạo báng. Nào là gây điều khó dễ, mong phá hoại việc tu.
Trong khi lập công bồi đức, chúng ta lại gặp nhiều nghịch cảnh tiền tài thốn thiếu, tật bịnh triền miên hoặc những nỗi bất bình những điều thống khổ dễ khiến chúng ta ngã lòng thối bước, nếu không nhẫn nại và vững đức tin.
Những chướng ngại trên đây là sự trạng của Cơ Nghịch Khảo.
Lại cũng có khi chúng ta sa ngã vì sắc đẹp, vì danh vọng, vì lợi quyền là những cạm bẫy để quyến rũ con người vào đường tội lỗi mà thất Đạo.
Đó là Cơ Thuận Khảo.
Tóm lại, Cơ Đạo có nghịch khảo và thuận khảo là hai phương pháp tôi luyện lòng người tu hành cho ra cao thượng. Vàng không trui lửa, ai biết vàng cao? Ngọc chẳng giùi mài ai hay ngọc quý?
Chúng ta tin chắc rằng mỗi lần bị khảo mà không ngã là mỗi lần chúng ta được lên được một nấc thang tấn hóa đó.
Vậy người tu hành phải chịu luật khảo thí và phải kiên tâm trì chí lướt qua mọi thử thách, tự tin và bền chí là bí quyết thành công.
KHÁI QUÁT VỀ TỨ GIÁO
Tổng niệm:
Thiên thơ đã định cho nước Việt Nam chịu ách đô hộ của Trung Hoa ngót một ngàn năm rồi nước Pháp ngót tám chục năm. Phàm phong tục và tín ngưỡng đều do học thuật và tôn giáo mà ra mà nước Việt Nam đã theo học thuật và tôn giáo nước Trung Hoa là Nho, Thích, Đạo và của nước Pháp là Thiên Chúa giáo, tất nhiên đã hấp thụ tư tưởng và tín ngưỡng của bốn giáo ấy.
Vậy ta thử xét qua các trào lưu tư tưởng trên đây mà tính họ đã thấm nhuần quốc hồn và quốc túy của chúng ta.
KHỔNG GIÁO
Đạo của Đức Khổng Tử lập ra gọi là Khổng giáo. Đức Khổng Tử sanh nhằm đời nhà Châu, gặp hồi Ngũ bá tranh hùng, nhơn dân đồ thán, phong tục suy đồi nên chủ trương của Người thiên về thực tế rất nhiều. Người định đem luân thường đạo đức dạy người đời đối xử nhau như thế nào cho hợp lẽ phải, chớ không truyền bá những lẽ huyền vi u ẩn, những điều này Người chỉ truyền riêng cho các bậc cao đồ thôi. Người lập ra lễ nhạc tiêu biểu cho phép trật tự và luật điều hòa của Trời Đất.
Học thuyết của Khổng giáo: Đức Khổng Tử tin có Trời, có Quỷ Thần, có cơ báo ứng.
Theo Ngài, Trời là Đấng vô hình mà Ngài gọi là Lý. Lý ấy rất linh động, rất cường kiện cao minh, chúa tể cả Vũ Trụ. Lấy chỗ cùng tột mà nói thì gọi là Thái cực, lấy nghĩa bao quát thế gian thì gọi là Thiên, lấy nghĩa làm chúa tể vạn vật thì gọi là Đế. Ấy vậy, theo quan niệm của Khổng Tử trời là Đấng Thái Cực hay Thượng Đế.
Người kế vị đắc lực cho Đức Khổng Thánh là ông Mạnh Kha (Mạnh Tử) là bậc Á Thánh.
Những sách làm nền tảng cho tư tưởng học thuyết của Khổng Mạnh là Tứ Thơ và Ngũ Kinh:
Tứ Thơ: Tứ Thơ gồm có Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử.
Sách Đại Học chép những lời khuyên của Đức Khổng Tử, mô tả nhiệm vụ của người quân tử, là trau dồi đức tánh của mình để giúp người khác trong việc tu nhân, mà cứu cánh là đến chỗ chí thiện. Ngay ở trương đầu sách có câu: “Đại học chi Đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”. Nghĩa là “Cái Đạo của người theo Đại học là phát huy cái đức sáng của mình, để cải hóa người dân đi đến chỗ chí thiện”.
Sách Trung Dung dạy người đời ăn ở đúng mực trung, không thái quá mà cũng không bất cập.
Sách Luận Ngữ mô tả tánh tình, cử chỉ của người quân tử trên đời sống thực tế.
Sách Mạnh Tử: (Do Mạnh Tử viết ra) Luận về luân lý, giáo dục, chánh trị và kinh tế.
Ngũ Kinh: Ngũ Kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thơ, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Kinh Thi ghi chép các bài thơ phú, các bài ca dao do Đức Thánh sưu tầm và chọn lọc, góp thành một quyển sách có ảnh hưởng lớn về tinh thần đạo đức.
Kinh Thơ là sách trong đó Đức Thánh sao lục các điển, mô, huấn, cáo, thệ, mạng, của các triều từ Nghiêu Thuấn đến đời Đông Châu.
Kinh Dịch giải thích lẽ biến hóa của Trời Đất và sự hành động của muôn vật.
Kinh Lễ ghi chép các lễ nghi trong gia đình, trong hương đảng và trong triều chánh.
Kinh Xuân Thu là sử ký nước Lỗ do Đức Thánh san định lại.
Tổng luận:
Học thuyết Khổng giáo hay Nho giáo là căn bản nền tảng luân lý cổ truyền của nước Việt Nam. Quan niệm về Đạo làm người của Nho giáo đã ăn sâu vào tâm hồn quần chúng. Cho nên, dù sang trọng hay bần hàn, ai cũng tự thấy cần phải lấy nghĩa nhơn, thành thật mà cư xử lẫn nhau. Ai làm trái lại, tức là vi phạm luật danh dự do Đạo làm người nêu ra, nếu họ lấy làm xấu hổ trước tòa án dư luận.
Đành rằng luân lý cổ truyền có một vài điểm không còn thích hợp với trào lưu tiến hóa của con người hiện tại, nhưng không nên vì thế mà ta bỏ hẳn cái luân lý quí hóa ấy đã lưu lại cho ta biết bao gương anh hùng, liệt nữ và đạo đức thanh cao.
PHẬT GIÁO
Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, Đạo Phật chia làm hai Tông: Bắc Tông hay Đại Thừa xu hướng về duy tâm, được quảng đại quần chúng về theo. Nam Tông hay Tiểu Thừa thiên về duy vật và lập thuyết theo khoa học và lý trí. Tông nầy lại được một số trí thức trong nước hoan nghênh.
Đạo Phật Bắc Tông được bành trướng ở nước Việt Nam dưới hai triều Lý, Trần, tức từ đầu thế kỷ XI (thứ 11) đến cuối thế kỷ XIV (thứ 14), nhưng về sau lại suy kém hơn Nho giáo. Mãi đến ngày nay, Đạo Phật lại phục hưng trong khi Nho giáo gần như lu mờ.
TỨ DIỆU ĐỀ: Phật cho đời là khổ nên Đạo của Ngài là Đạo cứu khổ. Lần thuyết pháp đầu tiên của Ngài gọi là Chuyển Pháp Luân, Ngài đề xướng thuyết Tứ Diệu Đề gồm có: Khổ Đề, Tập Đề (hay Nhơn Đề), Diệt Đề và Đạo Đề.
Về Khổ Đề, Ngài dạy: “Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà hợp là khổ, cái gì ưa mà phải lìa là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ, nói tóm lại, triền miên trong ngũ trược là khổ”.
Về Tập Đề, Ngài dạy: “Nguyên nhơn sự khổ là lòng tham sống: Vì tham sống nên cơ luân hồi sanh tử, càng tham càng muốn, càng được càng tham”.
Về Diệt Đề, Ngài dạy: “Diệt khổ phải tiêu trừ cho hết lòng tham dục”.
Về Đạo Đề, Ngài dạy: “Đạo diệt khổ tức là Đạo Bát Chánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định”.
Đó là chỗ bí yếu của Đạo diệt khổ mà Đức Thích Ca xưa đã tìm ra. Giữ được tám điều chánh ấy, thì là minh chánh. Chánh thì tịnh, tịnh thì an thì sáng, sáng thì thông, thông thì đắc đạo. Đắc đạo là hết già, hết bịnh, hết phiền não, hết nghiệp báo luân hồi, hết trì trục theo giả tướng, mà trở lại bổn thể Chơn Tâm vào cõi Niết Bàn.
Thập Nhị Nhơn Duyên: Trong đệ nhị đề (nhơn đề) có nói nguyên nhơn sự khổ là lòng tham dục. Vậy tham dục bởi đâu mà ra? Bởi sự vô minh, nghĩa là mê muội không thấu rõ lẽ tử sanh. Có lẽ các bậc cao đồ của Đức Phật dựa theo đó mà đề xướng một thuyết khác dễ tiếp thụ và giải thích cho rõ thuyết Tứ Diệu Đề thuyết ấy là “Thập Nhị Nhơn Duyên”.
Nhơn duyên là sao? Là nhơn cái này mà sanh ra cái kia, Tỷ thí hạt giống gieo xuống đất nứt mộng lên cây mà kết quả. Nhưng kết quả được là nhờ có duyên. Duyên là vật giúp cho nhơn dễ kết quả. Vậy hột giống là nhơn, nước, đất, phân, tro là duyên.
Trong thập nhị nhơn duyên, cái này sinh ra cái kia và cứ liên tiếp nhau như một xâu chuỗi.
Mười hai nhơn duyên, cứ theo thứ tự, xin kể ra đây:
1.- Vô minh: nghĩa là tối tăm mê muội.
2.- Hành: nghĩa là hành động.
3.- Thức: nghĩa là nhận thức, biện biệt.
4.- Danh sắc: nghĩa là hình danh, sắc tướng.
5.- Lục nhập: nghĩa là sáu giác quan, gồm có ngũ quan là mắt, mũi, miệng, tai, tay thêm giác quan thứ sáu là trí tuệ.
6.- Xúc: Nghĩa là cảm xúc.
7.- Thọ: nghĩa là cảm giác tiếp thọ của ngoại vật.
8.- Ái: nghĩa là yêu mến, tức là lòng tham dục.
9.- Thủ: nghĩa là ham mê, quyến luyến sự sống
10.- Hữu: nghĩa là có xác thân có sống ở đời.
11.- Sanh: nghĩa là sanh ra ở cõi đời này
12.- Lão tử: nghĩa là già rồi chết.
Những nhơn duyên ấy quan hệ với nhau đại thể như thế này: Vì mê muội (vô minh) mới sanh ra hành động (hành), có hành động sanh ra nhận thức (thức) v.v...
Triết lý Đạo Phật hồi nguyên thỉ đại để có hai thuyết Tứ Diệu Đề và Thập Nhị Nhơn Duyên. Về sau mới có thuyết vô ngã, không sắc, sắc không, v.v...
Tổng luận:
Vì Đạo Phật cho đời là biển khổ, nên có người lầm cho là yếm thế (chán đời). Tuy Đạo Phật cho đời là biển khổ nhưng không khổ vì vậy mà để cho chúng sanh trầm luân mãi mãi. Đạo Phật dạy phải tinh tấn mạnh bạo mà thoát khổ thì đâu phải là yếm thế? Đạo Phật gốc ở sự khổ mà ngọn là phép cứu khổ.
Bốn đức tánh: Đại từ, đại bi, đại nguyện, đại lực là bốn yếu tố của tinh thần Đạo Phật.
ĐẠO GIÁO
Đạo Giáo là do Đức Lão Tử lập ra. Sự tích Ngài nhiều sách ghi chép khác nhau. Theo các nhà khảo cứu Châu Âu, Ngài giáng sanh nhằm đời Nhà Châu (Trung Hoa) lối 551 năm trước Tây lịch kỷ nguyên. Và theo ông Tư Mã Thiên (nhà làm sử nước Trung Hoa) thì Đức Lão Tử tên là Lý Nhĩ tự Bá Dương, thụy là Đam, nên gọi là Lão Đam.
Đức Lão Tử chủ trương về Đạo, nên Đạo của Ngài gọi là Đạo giáo.
Quan niệm về Đạo:
Ta cần phân biệt chữ Đạo của Nho giáo và Đạo trong Đạo giáo.
Chữ Đạo của Nho giáo là Đạo làm người, là Nhơn Đạo, còn chữ Đạo của Đạo giáo là nguyên lý thiên nhiên hóa sanh vạn vật, là lẽ dĩ nhiên hay Thiên Đạo.
Đức Lão Tử chủ trương rằng vạn vật đều do Đạo mà ra, rồi vạn vật cũng trở về với Đạo. Mà Đạo là gì?
Trong Đạo Đức Kinh của Ngài trước tác ngay chương đầu luận về Đạo, Ngài viết:
“... Cái không tên là đầu mối của Trời Đất.
Cái có tên là mẹ của vạn vật nên thường vô dục mới thấy phần ảo diệu. Còn tâm mà hữu dục chỉ thấy sắc tướng. Cả hai tướng ấy đồng một gốc mà không tên. Đều là mờ mịt, đã là mờ mịt lại càng mờ mịt thêm. Nhưng những điều khéo lại do đó mà ra”.
... Vô danh thiên địa chi thỉ
Hữu danh vạn vật chi mẫu
Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu
Thường hữu dục dĩ quan kỳ khiếu (kiếu)
Thử lưỡng dả đồng xuất chi vị danh
Đồng vị chi huyền
Huyền chi hựu huyền
Chúng diệu chi môn.
Hữu danh vạn vật chi mẫu
Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu
Thường hữu dục dĩ quan kỳ khiếu (kiếu)
Thử lưỡng dả đồng xuất chi vị danh
Đồng vị chi huyền
Huyền chi hựu huyền
Chúng diệu chi môn.
Quan niệm của Đức Lão Tử về Đạo thật là siêu việt, khó cho bực thường nhơn am hiểu. Cũng trong Đạo Đức Kinh chương 25, Ngài viết:
“Trước khi có Trời Đất, vốn có một Đấng tự nhiên thành ra. Yên lặng thay! Riêng đứng một mình không thay đổi, đi khắp mọi nơi chẳng dứt. Có thể làm mẹ của Trời Đất, Ta vốn không biết tên gì, miễn cưỡng gọi là Đạo, miễn cưỡng gọi là lớn”. (Hữu Nhất vật hổn thành. Tiên thiên địa sanh. Tịch hề! Giao hề! Độc lập nhi bất cải, châu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên địa chi mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, cưỡng tự chi viết Đạo, cưỡng danh chi viết Đại).
Đức Lão Tử cho rằng Đạo là nguyên lý huyền diệu, vô hình vô sắc, sanh ra âm dương, Trời Đất và vạn vật. Hành động theo Đạo, tức là giữ Đạo Trời, vì Đạo Trời chẳng tranh mà hay được, chẳng nói mà hay ứng, chẳng vời mà tự lại, lẳng lặng mà hay mưu. Lưới trời lồng lộng thưa mà chẳng lọt. Do tư tưởng ấy mà Ngài đề xướng thuyết vô vi.
Đạo Vô Vi: Vô vi không phải là không làm gì hết, Người cho Đạo Trời là vô vi mà bất vô vi, nghĩa là không làm mà không phải không làm. Mới nghe dường như mâu thuẫn nhưng đó là một triết lý cao siêu. Hễ thuận với Đạo rồi thì cái mình “làm” không phải “mình làm”, mà là cái Đạo nơi mình làm. Cái làm ấy, là cái làm của Đạo nơi ta, nghĩa là của cái vô ngã gọi là vô vi. Cho nên không phải là làm, mà là làm theo Trời, không làm theo nhơn dục theo bản ngã mà làm theo Thiên Lý.
Đức Lão Tử lại nói: “Ba chục cây gọng cộng làm một bánh xe, dùng cái không ở giữa, bánh xe mới chạy được. Nắn đất sét để làm lu chậu, dùng cái không ở giữa lu chậu mới đựng được. Vách có cửa, nhưng nhờ cái không ở giữa thì mới vào ra được.
Cho nên cái có để làm lợi, cái không để mà dùng”.
Nhơn sanh triết học: về nhơn sanh triết học, nghĩa là triết về đời sống của con người, Đức Lão Tử khuyên người đời nên vô tri vô dục mà giữ lấy tánh chất phác của Trời phú cho.
Tổng luận:
Đạo giáo là một nền triết lý cao siêu, dạy con người sống tự nhiên theo lẽ Trời, vứt bỏ những xa hoa phù phiếm tránh cạnh tranh về mọi phương diện để tìm sảng khoái cho tâm hồn.
Triết lý về Đạo giáo thâu gọn trong bộ Đạo Đức Kinh do Đức Lão Tử dọn thành. Bộ Đạo Đức Kinh chia ra hai quyển, quyển thượng và quyển hạ, gồm có 81 chương. Quyển thượng nói về Đạo, quyển hạ nói về Đức nên gọi chung là Đạo Đức Kinh.
THIÊN CHÚA GIÁO
Cơ Đốc giáo (Christianisme) do Chúa Jésus lập ra. Tiếng Jésus phiên âm là Gia-tô. Chúa Jésus cũng gọi là Jésus Christ, phiên âm là Gia Tô Cơ Đốc. Hiện nay, Cơ Đốc giáo chia ra: Thiên Chúa giáo (Catholicisme), Tân giáo hay Đạo Tin Lành (Protestantisme) và Hy Lạp giáo (Eglise Grecque).
Chính Thiên Chúa giáo từ trước được truyền bá qua nước Việt Nam vậy ta nên hiểu khái quát về tôn giáo nầy. Thiên Chúa giáo cũng gọi là Công giáo, nghĩa là tôn giáo được chánh thức công nhận (Religion officielle).
Thánh Kinh: Thiên Chúa giáo có một bộ kinh rất quý gọi Thánh Kinh (Bible) cũng như Đạo giáo có bộ Đạo Đức Kinh vậy. Thánh Kinh chia làm hai phần: Phần thứ nhất gọi Cựu Ước hay Sấm truyền cũ (Ancien Testament), nói về Đạo Do Thái (Judanisme), vì Đạo này là nguồn gốc của Đạo Cơ Đốc. Phần thứ nhì gọi là Tân Ước hay Sấm truyền mới (Nouveau Testament) nói về Đạo Cơ Đốc.
Bản Thập Điều: Luân lý Thiên Chúa giáo gồm trong bản thập điều. Bản thập điều này tóm tắt những lời Đức Chúa Trời đã dạy ông Moïse trên núi Si nai (Sinai).
1.- Thờ phượng và kính mến Đức Chúa Trời trên tất cả.
2.- Không nên gọi tên Đức Chúa Trời vô cớ.
3.- Giữ phép ngày chúa nhựt.
4.- Thảo kính cha mẹ.
5.- Không giết người.
6.- Không làm chuyện dâm dục.
7.- Không lấy của người.
8.- Không làm chứng dối.
9.- Không muốn vợ chồng người.
10.- Không tham của người.
Mười điều răn cấm trên đây cũng gọi là luật Moïse.
Phép Bí Tích: Các phép bí tích như phép Thêm Sức, phép Xức Dầu Thánh, phép Giải Tội, phép Thánh Thế, phép Hôn Phối, v.v…
Là những phép đặc biệt do Chúa Cứu Thế lập ra, mục đích là ban và tăng ơn phước cho người chịu phép.
Tín Điều:
Người Công giáo rất trọng đức tin, cho rằng nhờ có đức tin mới nhận đúng chơn lý của Chúa Giê-su (Jésus) và đức tin đưa đến sự trông cậy ở Đức Chúa Cha, ở ơn phước đời này và hạnh phước Thiêng Liêng. Vậy có những tín điều sau đây:
Đức Chúa Trời là Cha, dựng nên Trời Đất.
Đức Chúa Jésus là con một Đức Chúa Cha và là Chúa của người Công giáo.
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, người chịu thai sanh ra bởi Đức Bà Maria Đồng Trinh.
Người lên Trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, phép tắc vô cùng.
Ngày sau người lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tin hiệu lực của phép tha tội.
Tin xác loài người sau này sống lại.
Tin sự hằng sống.
Giáo Lý: Giáo lý của Đạo Thiên Chúa gồm có mấy yếu mục sau đây: Luật tương báo, luật phân biện, lòng bác ái, phép công bằng, sự bố thí, sự vứt bỏ của cải, tức xả phú cầu bần, sự cầu nguyện, sự đoàn kết.
Về bác ái: Chúa Jésus dạy rằng:
“Hãy thương yêu kẻ nghịch con, hãy làm ơn cho kẻ làm khốn con, hãy cầu nguyện cho kẻ bắt bớ, hãm hại con. Đức Chúa Cha ở trên Trời là Đấng làm cho mặt trời soi sáng kẻ dữ cũng như người lành và làm mưa xuống đồng đều cho đứa gian cũng như người ngay”.
Về xả phú cầu bần, Chúa Jésus dạy: “Nếu con muốn hoàn toàn hãy bán hết những đồ gì con có, rồi lấy tiền phân phát cho những người nghèo khổ”.
Về luật tương báo, Người dạy: “Ai sử dụng dao kiếm sẽ chết vì dao kiếm”.
Tổng luận:
Thiên Chúa giáo là một tôn giáo gồm cả Nhơn Đạo và Thiên Đạo.
Nhơn Đạo được nhận thấy ở mười điều răn cấm. Thiên Đạo nhận thấy ở mấy khoản tín điều căn bản. Một tôn giáo rất thực tế.
LÒNG TIN THƯỢNG ĐẾ
Tổng niệm:
Từ ngàn xưa, con người tuy trình độ tấn hóa còn thấp kém nhưng đã có tin thờ Thượng Đế, trong những giờ phút khó khăn người ta hằng cầu cứu nơi Ngài, người lương thiện đặt tất cả đức tin nơi sự ủng hộ của Ngài, kẻ hung ác thường nấm nấm nớp nớp sợ Ngài hành phạt.
Vì trình độ trí thức khác nhau, mà quan niệm của cổ nhơn về Thượng Đế cũng phải sai biệt: Khởi thỉ người ta thấy vật nào cũng linh thiêng, chỗ nào cũng Thần cả, Thần là Vũ Trụ, đối với họ vẫn là một, nên mới phát sanh cái học thuyết Phiếm thần. (chỗ nào cũng là: Thần là một cùng với Vũ Trụ).
Ở Cổ Ba Tư, người ta đề xướng cái thuyết thờ Thần Lửa, gọi là Hỏa giáo, đến đời Đường tôn giáo này được truyền sang qua Trung Quốc, gọi là Thiên giáo. Lần lần lòng tín ngưỡng của con người theo nhịp tấn hóa mà sáng suốt thêm lên cho đến ngày nay, hầu hết nhân loại trên toàn cầu đều tin có một đơn vị đệ Nhất. Một nguyên lý tuyệt đối, là nguồn gốc của Càn Khôn Vũ Trụ và nhân loại, mà người ta gọi là Đấng Tạo Hóa hay Thượng Đế.
Các nhà triết học và các nhà tôn giáo từ Đông chí Tây, từ cổ chí kim, đều tin tưởng sự tự hữu của Thượng Đế, mặc dù quan niệm của họ có vài điểm dị đồng.
Tuy trí phàm của chúng ta không thể tưởng tượng được Thượng Đế ra sao, mắt phàm của chúng ta không thấy được Thượng Đế nhưng chúng ta có đủ bằng cớ chứng minh sự tự hữu của Ngài.
Những bằng chứng này đại loại có ba thứ: bằng chứng về Võ trụ, bằng chứng về đạo lý, bằng chứng về siêu hình.
Bằng cớ về vũ trụ:
Ông Voltaire, một đại văn hào nước Pháp hồi thế kỷ 18, có làm 2 câu thơ để tỏ lòng tin tưởng Thượng Đế. Hai câu thơ này tạm dịch như sau:
“Cảnh trí Vũ Trụ khiến tôi hoang mang, tôi không thể nghĩ rằng chiếc đồng hồ này (ám chỉ Võ trụ) lại có mà không có người thợ máy đồng hồ”.
Đồng một quan niệm với Voltarie, khi ta thấy một con chim bị bắn rơi, tuy không thấy ai bắn, nhưng ta vẫn biết chắc phải có một tay thiện xạ, mới làm cho con chim bị đạn.
Ta tuy không thấy được điễn khí nhưng ta tin chắc có điễn khí là do sự tác dụng của nó.
Ta tuy không thấy được Thượng Đế, nhưng sự trật tự và điều hòa của Vũ Trụ đủ làm cho ta tin có Thượng Đế.
Trật tự điều hòa của vũ trụ:
Những hiện tượng quanh mình ta, từ loài thảo mộc đến côn trùng và phi cầm tẩu thú cho đến nhân loại, sao ta dám cho ngẫu nhiên mà ra? Nếu là ngẫu nhiên thì muôn vật ấy tất là hỗn độn không vật nào phân biệt với vật nào được. Sự thiệt là loại nào có hình thể của loại ấy, giống nào theo giống ấy, mỗi vật mỗi hình điều hòa chí lý, nó tàng ẩn trong cảnh vô hình mà ta không thấy. Cái điều hòa ấy lại phát hiện trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, cứ liên tiếp mà vận hành trong trật tự, còn vạn vật thì cũng ứng theo thời tiết mà sanh sanh hóa hóa. Vạn vật có sự sống rõ ràng, không ai chối cãi được. Lại sự sống ấy còn hàm dưỡng một giác tánh biểu lộ từ cây cỏ thú cầm cho đến loài người thì chuyển thành cái trí khôn linh hiệu lạ lùng. Cái lý điều hòa tạo hình muôn vật, cái sinh khí, cái cảm giác ấy, cái động lực linh hoạt ở trong muôn vật tất phải do một nguồn cội nào. Cái nguồn cội ấy, khi còn bất động (tịnh thể) gọi là Đạo mà khi đã động (động thể) mà chuyển hóa thì gọi là Đấng Tạo hóa, là Thượng Đế, là Trời vậy.
Bằng chứng về đạo lý:
Bằng chứng về đạo lý căn cứ ở tinh thần phục vụ.
Bất cứ người nào cũng tự thấy có tinh thần phục vụ. Mặc dù đối với việc thiện hay việc ác, ta tự do muốn làm hay không làm, nhưng tinh thần phục vụ lại bắt buộc ta phải làm việc nọ, tránh việc kia.
Ví dụ: ta thấy một đứa bé vấp té không chổi dậy được. Ta có thể bỏ đi luôn vì có ai buộc ta phải đỡ nó dậy đâu? Nhưng không nỡ làm lơ, ta chạy lại đỡ nó dậy và xem coi nó có bị thương để lo cứu cấp. Hành động này chính do tinh thần phục vụ thúc đẩy ta làm.
Tinh thần phục vụ không phải do người đời lập ra, nó vốn có sẵn trong lương tâm ta, mà lương tâm đối với lý trí, là một ánh sáng Thiêng Liêng, đối với ý chí, nó lại là một quy tắc chuẩn thằng bất di bất dịch.
Đã nói tinh thần phục vụ không do một luật gia hữu hình nào lập ra, tất nhiên nó phải do một luật gia vô hình mà ta gọi là Thượng Đế.
Bằng chứng về siêu hình:
Siêu hình học chứng minh rằng, tất cả vạn vật trong Vũ Trụ đều chuyển động không ngừng. Từ tinh thần đến vật chất, từ cái bổn thể tế vi thuần túy, đến cái bổn thể thô sơ phức tạp, thấy đều chuyển động luôn.
Một vật mắt phàm ta cho là bất động, chẳng hạn như hòn đá, mỗi nguyên tử trong những thành phần cấu kết thành khối đá vẫn luôn luôn vận chuyển.
Thinh âm, ánh sáng, hơi nóng, điện khí, điện từ, quang tuyến, v.v... toàn là cách thức ba động của tinh lực và vật thể trong Vũ Trụ phát hiện ra, biến thành cái năng lực chuyển động vô cùng vô tận.
Sự chuyển động toàn thể này phải do một động cơ duy nhất điều khiển nó. Cái động cơ duy nhất ấy tức là Thượng Đế.
Ông Descartes nhà triết học kiêm toán học nước Pháp hồi thế kỷ 17, dùng lý trí suy nghiệm để chứng minh sự tự hữu của Thượng Đế, Ông nói:
“Tôi biết tôi là tôi, nhưng tôi đây là gì? Là một giống vật hoài nghi, mà đã hoài nghi tức là tôi chưa toàn thiện. Nhưng tôi nhận thấy tôi không hoàn thiện, tôi không thể không quan niệm một Đấng thật toàn thiện. Ý niệm toàn thiện này do đâu mà tôi có? Vì tôi là bất toàn thiện kia mà? Cũng không phải do ngoại giới mà tôi có được ý niệm toàn thiện đó, vì ngoại giới cũng là bất toàn thiện. Vậy ý niệm toàn thiện ấy nhất định phải là của Đấng Toàn Thiện ban cho tôi. Luôn đến ý niệm tuyệt đối hữu hạn cũng thế. Chúng ta là kẻ hữu hạn mà lại có ý niệm về vô hạn. Ý niệm ấy cũng chỉ có Đấng vô hạn là Thượng Đế ban cho ta được mà thôi.”
VŨ TRỤ QUAN
Định nghĩa Vũ Trụ Quan:
Ông Châu Hi định nghĩa Vũ Trụ như vầy?
Tứ phương thượng hạ, viết: “Võ”, cổ vãng kim lai, viết: “Trụ” (Bốn phương, trên, dưới, gọi võ, xưa qua nay lại, gọi trụ).
Giải rộng ra: Không gian vô biên, vô tận là “Võ”, thời gian vô thỉ vô chung là: “Trụ”.
Vậy Võ Trụ: hiểu rộng ra thêm nữa, gồm tất cả cái gì trong không gian và thời gian.
THUYẾT SÁNG TẠO VÀ THUYẾT LƯU XUẤT
Các triết gia Âu châu có chỗ dị đồng về quan niệm Vũ Trụ. Người thì cho rằng Vũ Trụ sở dĩ có là nhờ Thượng Đế sáng tạo. Kẻ lại cho rằng Thượng Đế lưu xuất bán thể mà tác thành Vũ Trụ.
Theo thuyết sáng tạo (théorie de la création) Thượng Đế lập ra Vũ Trụ ở ngoài Ngài, chớ không phải rút ở bản thể Ngài mà lập ra.
Theo thuyết lưu xuất (théorie de l’ Emanation) Thượng Đế chiết một phần bản thể của Ngài để lập thành một bản thể khác tức là Vũ Trụ.
Căn cứ vào đoạn Thánh giáo sau đây, chúng tôi nhận thấy hai thuyết ấy có thể bổ túc cho nhau.
Thánh giáo:
“Khi chưa có chi trong Càn Khôn, Thế giới thì khí Hư vô sanh có một mình Thầy. Rồi Thầy lập ngôi Thái cực. Thái cực phân Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái lại biến hóa vô cùng mới lập ra Càn khôn, Thế giới.
Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, nhơn loại, gọi là chúng sanh”.
Theo Thánh giáo trên đây, Thượng Đế dùng phép vô vi Bát Quái mà lập Vũ Trụ, tức là cơ sáng tạo.
Đoạn Ngài lại phân tánh Ngài mà sanh ra vạn vật (chúng sanh) tức là phép lưu xuất vậy.
VÔ CỰC
Nguyên hồi vô thỉ, nghĩa là khi chưa tạo thiên lập địa, cõi thái hư (không gian) mờ mờ mịt mịt chỉ có một nguyên lý tuyệt đối thiên nhiên hiện hữu, vô thỉ vô chung, cổ nhân mượn phàm ngữ gọi là khí Hư Vô hay Vô Cực, Phật giáo gọi nguyên lý ấy là Chơn Như, Khổng giáo gọi là Thiên Lý, Lão giáo gọi là Đạo.
Khí hư vô lại sanh ra chơn linh của Thượng Đế.
BA NGÔI
Thứ nhất, Thượng Đế lập ngôi một của Ngài là Thái cực. Ngài lại dùng ý chí biến Thái cực làm cơ động tịnh. Thái cực động sanh Chơn Dương làm Hỏa. Hỏa là Thần tức là cái động thể Nguơn Thần của Thượng Đế mà Đạo gọi Mộc Công, vì mộc năng sanh hỏa.
Thái cực lại tịnh mà sanh Chơn Âm làm Thủy. Thủy là Tinh tức cái Tịnh thể Ngươn Thần của Thượng Đế mà Đạo thơ gọi là Kim Mẫu, vì kim năng sanh thủy.
Ấy vậy Thượng Đế làm chủ Chơn Dương, còn Đức Diêu Trì Kim Mẫu làm chủ Chơn Âm, mà Chơn Dương và Chơn Âm vốn đồng một gốc.
Thượng Đế lại vận chuyển ngôi Thái Cực, cứ một động một tịnh mà sanh hai nguyên lý Thái Dương và Thái Âm lập thành ngôi Hai là Lưỡng Nghi (Thái Dương và Thái Âm).
Lưỡng nghi lại vận chuyển theo mạng lịnh Thượng Đế, sanh thêm hai nguyên lý Thiếu Dương và Thiếu Âm lập thành ngôi Ba là Tứ Tượng (Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm).
BIỂU HIỆN BA NGÔI | ||
Thái cực | Lưỡng nghi | Tứ tượng |
CƠ SÁNG TẠO
Thượng Đế dùng quyền Chí Tôn, lập phép vô vi Bát Quái mà tác thành Vũ Trụ. Trước nhất, Ngài lập ba cõi Thanh Thiên.
1.- Thái Thanh Thiên, Phật giáo gọi là Đại Bát Niết Bàn
2.- Thượng Thanh Thiên, Phật giáo gọi là Bát Niết Bàn
3.- Ngọc Thanh Thiên, Phật giáo gọi là Niết Bàn.
Trong bài kinh xưng tụng Đức Thái Thượng Đạo Tổ (Tiên giáo) có câu:
“Đạo cao nhứt Khí, diệu hóa Tam Thanh”.
Xong, Thượng Đế lập thêm ba cảnh giới là: Thượng giới, Trung giới, và Hạ Giới.
Thượng giới gồm ba cõi Tiên là:
1.- Cõi Thiên Tiên.
2.- Cõi Địa Tiên.
3.- Cõi Nhơn Tiên.
Mỗi cõi này đều có ba từng, cộng chung thành chín, gọi Cửu Trùng Thiên. Theo Thánh giáo Cửu Trùng Thiên kể từ trên xuống dưới gồm có:
1.- Hổn Nguơn Thiên,
2.- Hư Vô thiên.
3.- Tạo Hóa Thiên.
4.- Phi Tưởng Thiên.
5.- Hạo Nhiên Thiên.
6.- Kim Thiên.
7.- Xích Thiên.
8.- Huỳnh Thiên.
9.- Thanh Thiên.
Hổn Nguơn Thiên có Lôi Âm Tự. Hư Vô Thiên có Ngọc Hư Cung. Tạo Hóa Thiên có Diêu Trì Cung.
Trung giới gồm có cõi Thánh và cõi Thần. Mỗi cõi cũng chia nhiều từng, đây chỉ nói sơ lược thôi.
Hạ giới là cõi phàm trần có tinh tú và thất thập nhị địa cầu, đều có nhơn loại, cùng các thứ sanh vật, nhưng hình thể và cách sinh hoạt vẫn khác nhau.
Địa cầu chúng ta ở đứng vào hạng 68.
Do tám cung Bát Quái, Thượng Đế phân tánh cho xuất hiện Bát Phẩm Chơn Hồn chuyển xuống Càn khôn Thế giới biến thành chơn linh của chúng sanh.
Trong “Phật Mẫu Chơn Kinh” có câu:
“Thiên cung xuất vạn linh tùng Pháp,
Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh.
Càn khôn sản xuất hữu hình,
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.”
Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh.
Càn khôn sản xuất hữu hình,
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.”
Bát hồn là: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn.
Vạn vật vẫn nhờ phép Âm Dương giao cảm của Thượng Đế mà sanh ra, và thọ của Thượng Đế một điểm linh quang, gọi là hồn.
Bát Quái là nơi sản xuất Bát Phẩm Chơn Hồn giáng trần để thi hành luật tấn hóa.
Khi đắc Đạo, tức tấn hóa đến mức cuối cùng, các chơn hồn cũng do Bát Quái là nơi sản xuất để trở về cựu vị. Cho nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho “Bát Quái Đài” là tượng trưng cơ đắc Đạo tại thế đó vậy.
CHƠN LÝ
Người gởi thân vào cửa Đạo bao giờ cũng phải và hành đúng theo chơn lý.
Chơn lý là gì? Là lý Chơn thật, nói nôm na là lẽ thật, lẽ phải. Có hai thứ chơn lý: Chơn lý tương đối và chơn lý tuyệt đối. Chơn lý tương đối là chơn lý do lý trí con người tìm ra. Chơn lý tuyệt đối là chơn lý của Trời vậy.
Chơn lý tương đối xuất phát do hai yếu tố chánh sau đây:
a/ Đối tượng của tư tưởng.
b/ Tư tưởng về đối tượng ấy.
Ví dụ ta tư tưởng một điều gì rồi ta cho nó là phải. Cái điều tư tưởng đó là đối tượng. Khi ta cho nó là phải tức là ta đã dùng tư tưởng về đối tượng ấy rồi. Cái phải ấy đối với ta lẽ thật, tức chơn lý vậy. (chơn lý tương đối)
Con người nhờ trí khôn mà học hỏi, tìm tòi kinh nghiệm nên thông nhiều việc. Sự thông hiểu đó là chơn lý, nhưng chỉ là chơn lý tương đối thôi, vì nó tùy trình độ trí thức con người mà được cao thượng hay tầm thường.
Như người đời dùng thịt cá nuôi thân cho là bổ dưỡng. Trái lại người tu hành lại cho rằng rau, hoa quả là chất bổ. Cả hai đều có cái lẽ phải của mình.
Vậy chơn lý tương đối tùy quan niệm con người mà có, và bao nhiêu quan niệm là bao nhiêu chơn lý ấy.
Xin đơn cử một ví dụ cho dễ hiểu: một ngọn đèn chung quanh có thể bốn tấm kiếng khác màu nhau: một tấm vàng, một tấm đỏ, một tấm xanh, một tấm tím.
Người đứng ngay tấm kiếng màu xanh thấy ánh đèn màu xanh, người đứng ngay tấm kiếng màu đỏ thấy ánh đèn màu đỏ, v.v... Kẻ bảo xanh, người cho là đỏ, phân phân bất nhứt không ai chịu tin theo vì chính mỗi người đã thấy kia mà. Cho nên sở dĩ có nhiều người cãi nhau về chơn lý là chỉ vì thế.
Vậy muốn cho mọi người thấy đích xác cái màu của ngọn đèn ra sao ta cứ gở bốn tấm kiếng ấy ra là được ánh ngọn đèn tượng trưng chơn lý tuyệt đối, mà hễ nó xuyên qua bốn tấm kiếng thì là tượng trưng chơn lý tương đối vậy. Thế thì chơn lý tương đối không cố định.
Nó biến đổi theo thời gian và trình độ tấn hóa của con người. Điều mà hôm nay ta cho là chơn lý có thể ngày mai, đối với ta, nó không còn là chơn lý nữa.
Những chơn lý tương đối, tức chơn lý của loài người, sau rồi sẽ tấn hóa lên để gặp nhau ở chỗ duy nhứt là chơn lý tuyệt đối, là lý của Trời (Thiên lý).
Các chơn lý này mới thiệt là bất di bất dịch. Từ xưa đã có tôn giáo thì đã có chơn lý này, vì tôn giáo vốn của Trời lập ra mặc dù có nhiều hình thức. Nó là chơn lý duy nhất, cao thâm huyền bí, trí người tầm thường không thể nào quán thông được.
Chơn truyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay, tức là chơn lý ấy vậy. Chơn truyền lại có hai phần.
Công truyền và Tâm truyền.
Phần Công truyền dạy chung cách thức tu hành theo luật pháp của Đạo cho khỏi lạc đường lối thiên định và tránh gây những tội tình nghiệt ác lôi cuốn con người vào vòng sanh tử.
Phần Tâm truyền gồm những yếu lý về hình nhi thượng học dành riêng cho những bậc trí thức tiếp thọ, sau khi công viên quả mãn. Có người quá tin ở tài trí mình, không cùng chơn truyền vẫn có, lại nghĩ theo ý riêng, đề xướng những điều phản chơn truyền, cốt để thỏa mãn cái chơn lý chủ quan của mình. Đó chỉ là chơn lý tương đối, mà chơn lý tương đối không thể nào hoàn toàn được, vì nó do bộ óc không hoàn toàn của người đề xướng nó ra.
Vậy chúng ta tu hành cần phải giữ chơn truyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là chơn lý của Đức Chí Tôn ban bố cho chúng ta, nhờ đó thành tâm đắc quả.
BẢN NGÃ
Phàm làm việc gì mà trông mong ở tư kỷ, tư lợi, như làm lành mong gặp phước, làm phải để cầu khen, như vậy là tư về bản ngã, nghĩa là ngã chấp, chấp cái ta. Cái ta là cội rễ các việc tư, cho nên việc gì chẳng lợi cho mình mà nếu buộc phải làm, thì làm lấy có lại tính thiệt so hơn hơn, cân nhắc từng chút. Còn làm việc gì có lợi cho mình thì mệt nhọc không nài. Vậy cái Ta thì thường chứa đầy tư tưởng thiên lịch theo ngã kiến, nói tóm lại nó là nguồn gốc của các tánh xấu xa đê tiện, như vị thân, vị kỷ, tự ái, v.v... Những tánh xấu này làm cho con người tự cao, tự đắc mà không bao giờ phục thiện. Cho nên con người mà tâm hồn còn chứa đầy những tư tưởng thấp hèn thế ấy, thì còn chỗ đâu mà chứa những tư tưởng cao siêu vong ngã. Mà trong người thế ấy thì khó mà tấn hóa, có chăng chỉ tấn hóa một cách chậm chạp đó thôi.
Tượng chấp có Ta thì chẳng biết có Người. Ta và Người mà phân biệt, thì bao nhiêu hành động thiên về vị kỷ mà mất lẽ công, có khi còn phải thất nhơn thất đức.
Diệt được cái Ta là tiết chế được tình dục, đoạn trừ tư tâm ngã kiến, rồi nhứt cử nhứt động đều quay về vị tha, quên cả mình để mưu lợi cho người. Đã quên cả mình thì còn việc gì làm lụy cho mình được?
Thử kiếm trong hình hài ta coi có cái gì thiệt là của ta đâu?
Thân thể con người do bốn nguyên tố lớn hiệp thành, gọi Tứ đại giả hiệp. Tứ đại là: đất, nước, lửa, gió.
Xương thịt trong thân tánh chắc, thuộc Đất,
Huyết dịch trong thân tánh lỏng, thuộc Nước,
Ôn độ trong thân tánh ấm, thuộc Lửa,
Khí chất trong thân tánh động, thuộc Gió.
Khi hồn lìa khỏi xác bốn nguyên tố cấu tạo nên cơ thể thảy đều tan rã, rồi hiệp thành một bổn thể khác để rồi tan nữa, hiệp nữa, thoạt có, thoạt không.
Rõ ràng là một giả tướng. Đã là một giả tướng tội gì bo bo chấp lấy cái ta?
Cho nên, bực tu hành nếu không lo trừ bản ngã thì chẳng thể nào bỏ Vọng về Chơn, bỏ Mê theo Giác mà thoát ra vòng luân hồi quả báo. Là vì hễ còn ôm ấp cái ta, là còn cố chấp ngã kiến, nên không thế nào tìm ra chơn lý.
Chơn lý với bản ngã không bao giờ lưỡng lập.
Tổng luận:
Ta và Người bao giờ cũng mâu thuẫn nhau, nếu trong đời sống của chúng ta mà còn phân biệt Nhĩ Ngã thì không ai là không lo củng cố cái bản ngã của mình. Nhưng nếu diệt được cái bản ngã, ta sẽ thấy đâu đâu cũng là mình cả và cái sống của người thiên hạ cũng là cái sống của mình. Hiểu và tin chắc như thế, tức là chúng ta đã đi đến chỗ Đại Đồng. Trang Tử nói: “Người và Tạo hóa hợp làm một rồi, thì đi đâu lại không phải là mình”.
CHƠN NGÃ
Nhơn hồn chuyển sanh từ kiếp này sang kiếp khác. Vì vô minh vọng chấp cái thân tứ đại làm bản ngã, cho nên ích kỷ mà sanh dục vọng, rồi tạo nhơn mà phải trả quả.
Nếu con người biết tu, dùng qui giới mà lọc cho Nhơn hồn trong sạch, dùng thiền định mà làm cho nó yên tịnh và sáng suốt, như nước biển yên lặng không sóng dợn thì Nhơn hồn sẽ đắc giác mà chứng quả Địa Tiên hoặc cao hơn một bực là Nhơn Tiên.
Nhơn Tiên và Địa Tiên là bực sáng suốt, dứt sạch vô minh, biết được quá khứ vị lai, phân biệt được vọng với chơn, nên không còn duyên theo ngoại cảnh. Tuy nhiên, phần thô tưởng đã dứt, nhưng phần tế tưởng chưa đoạn tuyệt. Vì vậy mà sau khi hưởng tận Tiên vị trong một thời gian mấy ngàn, mấy muôn năm ở cõi Tiên rồi, còn phải chuyển kiếp đặng tấn hóa thêm lên và diệt trừ cho tuyệt tế tưởng.
Người có Tiên căn giáng thế là bực đại thông minh, học ít hiểu nhiều, có khi trực giác mà hiểu biết, Người bao giờ cũng hành động phi phàm cao thượng, độ thế cứu đời bằng cách dìu dẫn chúng sanh trên đường đạo đức. Vừa cứu độ, vừa tu luyện cho trí tuệ của mình phát triển hoàn toàn, mà chứng quả Bồ Đề, Phật giáo gọi là Bồ Tát, Đạo giáo gọi là Thiên Tiên, hưởng quả tại cõi Bồ Đề hay cõi Thiên Tiên.
Bồ Tát hay Thiên Tiên đều là bực toàn tự giác, biết rõ quá khứ vị lai, hiểu thấu cơ mầu nhiệm của Trời Đất, không còn gì học hỏi nữa. Song tự giác chỉ là giác ngộ cho mình thôi, nên còn tự kỷ mà chấp trước vẫn còn. Muốn cầu chánh giác, Bồ Tát phải giáng thế một lần nữa để lập Đạo cứu Đời.
Đó là giác tha, nghĩa là đem cái giác ngộ của mình mà giác ngộ chúng sanh, sự giác ngộ của mình đã hoàn toàn, sự giác ngộ chúng sanh đã viên mãn, tức là tự giác và giác tha đầy đủ, nên được chứng quả chánh giác, Phật giáo gọi thành Phật, Đạo giáo gọi là Đại Giác Kim Tiên.
Chứng quả Phật thì được hoàn toàn giải thoát, hết phiền não, chướng ngại, hết nghiệp báo luân hồi, hết trì trục theo giả tưởng mà trở lại bổn thể Chơn tâm, tức là Chơn ngã mà vào cõi Niết Bàn.
ĐẠO ĐỨC
Theo Đức Lão Tử, cái nguyên lý tự nhiên là Đạo, được vào trong lòng người gọi là Đức.
Theo nghĩa thông thường Đạo Đức là lý pháp người ta noi theo để cư xử với đời thế nào cho trên hợp với lẽ Trời, dưới hợp cùng luân lý.
Người có đạo đức bao giờ cùng biết thận trọng:
Đối nội: không làm việc gì tổn thương đến nhơn cách mình, dù là việc âm thầm không ai biết.
Đối ngoại: cũng không bao giờ làm việc phi nghĩa và tổn nhơn hại vật, mặc dù việc ấy có lợi cho mình.
Người không đạo đức, trái lại không cần quấy phải, phàm việc gì có lợi cho mình thì cứ mạnh dạn mà làm, mặc dù việc ấy có hại cho ai. Vì vậy mà họ cứ tính đủ trăm mưu ngàn kế để thỏa mãn bản năng đê tiện của họ.
Người không đạo đức không có tín ngưỡng và không có tư tưởng thanh cao, họ chỉ sống với sự lôi cuốn của thị hiếu và dục vọng, không cần biết nghĩa vụ đối với nhơn quần xã hội là gì.
Người không đạo đức chẳng thể nào bền chịu với cảnh nghèo túng, họ dám làm liều, miễn sao cho có tiền xây dựng no ấm cho họ, cho nên trong xã hội mà đa số người không đạo đức, thường xảy ra những thảm kịch giết người đoạt của, hay lừa đảo của nhau không là việc lạ.
Trái lại, người có đạo đức thì vui chịu với số phận, gặp cảnh nào cũng yên ổn thảnh thơi, thì đâu đến nỗi bị ngoại vật lôi cuốn vào vòng tội lỗi?
Nhưng đạo đức cần phải đi đôi với tài năng. Một người có đạo đức mà thiếu tài năng thì chưa có đủ tư cách hoàn toàn để giúp Đời, giúp Đạo.
Một người có tài năng mà thiếu đạo đức chỉ sống ích kỷ và làm hại cho nhơn quần xã hội thôi.
Một người khả dĩ được hoàn toàn là khi nào kiêm cả tài đức. Có đức để làm tròn nghĩa vụ, có tài để làm tròn nhiệm vụ.
Còn như chịu kém một phần, thà kém tài hơn là kém đức. Câu “Đức thắng tài chi quân tử, Tài thắng đức chi tiểu nhơn” thật chí lý.
Đạo đức là nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu đạo đức xã hội sẽ lâm vào cảnh cuồng loạn.
Đức Chí Tôn đã dạy:
“Những sự phàm tục đều là mưu kế của Tà Mị Yêu Quái cốt để ngăn trở bước đường Thánh Ðạo của các con. Những mưu quỉ quyệt ấy do lịnh Thầy dùng để thử các con. Thầy đã nói: Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con; nó hằng thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con. Thầy lại khuyên các con gìn giữ bộ thiết giáp cho đến ngày hội hiệp cùng Thầy. Ấy vậy Ðạo là vật rất hữu ích như giáp hữu ích cho thân các con, nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lổ; còn bỏ Ðạo thì các con ở dưới phép Tà Thần.”
Nhờ đạo đức, chúng ta chế phục thất tình, lục dục, chế phục được tình dục, tức khỏi lo vướng phải lưới rập tà mị bủa giăng, tức là tránh khỏi những điều cám dỗ.
Đạo đức là nguồn cội của sự sáng. Nhờ có đạo đức thần trí được quang minh, thông tuệ. Thần trí được minh huệ, thì biết phán đoán giả chơn và thấu đáo một phần nào lẽ huyền vi của Tạo hóa.
Lòng đạo đức vốn làm nòng cốt cho Thần Thánh, vì một tư tưởng hay hành vi đạo đức luôn luôn vẫn được Thần Thánh chứng giám và hộ trì cho. Lòng vô đạo đức tức có nét vạy tà, mà tâm tánh vạy tà là chỗ cho tà thần xâm nhập để giục quấy thêm lên.
Đạo đức lại là chiếc thang tấn hóa đưa lần chúng ta lên tột phẩm vị Thiêng Liêng. Bước đặng một nấc tức đặng một phẩm cao. Bước đến một nấc thang tức là đến cõi hoàn toàn chí thiện tức đến cõi Thượng Đế vậy.
MỤC ĐÍCH ĐỜI NGƯỜI
Nếu con người sanh trên thế này chỉ để hưởng những khoái lạc về vật chất, để bận rộn cho kiếp sống còn, rồi giàu cũng như nghèo, sang cũng như hèn, đều mai một dưới vuông huỳnh thổ, như thế thì kiếp người có chi mà đáng kể.
Không! Kiếp sống con người đâu phải giới hạn từ lúc sơ sanh đến khi nhắm mắt mà thôi đâu. Đó chỉ là một giai đoạn của kiếp sống hoàn toàn. Kiếp sống hoàn toàn của con người là nguồn hằng sống, là kiếp sống muôn đời vĩnh viễn, trải qua nhiều giai đoạn mà tôn giáo gọi là kiếp tái sanh, hay luân hồi chuyển kiếp.
Thác sanh xuống cõi trần, ta được Thượng Đế ban cho nhiều tiềm lực quý hóa, nhiều hoài bão vô biên. Bổn phận ta là lo phát triển những tiềm lực và thỏa mãn những hoài bão ấy. Từng kiếp tái sanh, tức từng giai đoạn của kiếp sống vô biên, ta học hỏi, nghiên cứu, rút kinh nghiệm, ta đào luyện tâm hồn trong đau khổ, trong thử thách cho nó tỏ ngộ thêm lên, ta tự tạo những đức tánh cao siêu nhờ đó ta lần đến cõi chí thiện chí mỹ.
Thượng Đế ban cho ta đủ phương tiện phụng sự Ngài trong cuộc đại hóa. Thế là ta hân hạnh được dự phần sử dụng luật Tấn Hóa không ngừng. Ta vạch cho nhơn loại một vòng chân trời trong sáng; ta an ủi những tâm hồn đau khổ, ta cảnh giác những tâm hồn tội lỗi, để đưa lần những tâm hồn ấy lên chỗ thanh cao là nơi chói lọi ánh huy hoàng của sự Thật, sự Lành và sự Đẹp (Chân Thiện Mỹ) là một công trình vĩ đại, là một sự cải tạo tinh thần.
Trong việc phụng sự nhơn sinh, tức phụng sự Thượng Đế ấy ta tự thấy nhiều thỏa thích hơn là sống một cuộc đời ích kỷ, khô khan, vô vị, còn gì quý hóa bằng gieo rắc trong tâm hồn người những hạt giống từ thiện, công bình, bác ái, để rồi gặt hái những hoa thơm trái đẹp giúp cho nhu cầu của một đời sống tinh thần đạo đức?
Ta hãy ngước lên nhìn bao quát cái viễn ảnh tốt đẹp của tương lai ta, để giữ vững đức tin, để đủ can đảm cùng nghị lực chống lại những mưa gió bão bùng bất trắc của cỏi đời vật chất. Ta hãy thận trọng từng bước một để đi lần đến những đỉnh cao vót mà đời gọi là Đạo Đức, Nghĩa Vụ và Hi Sinh.
Ta chẳng nên hẫng hờ dừng bước ngắm xem những hoa đồng cỏ nội, không một hương vị gì đáng kể.
Ta nên biết rằng từ cái gì đẹp đẽ và quyến rủ, cho đến những tinh cầu vĩ đại trong Càn khôn Vũ trụ sẽ đều tiêu tan, nhường chỗ cho cái gì khác mới và quí hơn. Duy có linh hồn ta là hằng sống, Nó tiến và tiến mãi, qua cả thời gian và không gian, như một khách lữ hành trên con đường muôn dặm, để rồi sẽ đến đích cuối cùng là hoàn toàn giải thoát.
Mục đích đời người là thế.
GIỚI
Giới là những điều răn cấm phải giữ, những điều luật phải tuân, để tu dưỡng cho trúng đích. Cho nên trong Đạo có ngũ giới cho thiện nam, tín nữ giữ phận tu hành.
Ngũ giới là cấm sát sanh (không giết hại), cấm du dạo (không trộm cắp), cấm tà dâm (không dâm dục bậy bạ), cấm vọng ngữ (không nói dối nói bịa), cấm tửu nhục (không rượu thịt).
Bực tu hành mà giữ trọn giới cấm thì lòng được trong sạch và trống không, chẳng còn vọng tưởng đến việc phàm trần khoái lạc. Lòng được sạch trống không thì ý tưởng mới hết tham sân, ý tưởng hết tham sân thì hết phát khởi nơi tâm những vọng niệm sát sanh, đạo tặc, tà dâm, nơi cửa miệng không còn thốt ra những lời giả dối, gạt gẫm hoặc vu khống người khác.
Tóm lại, giữ được giới cấm là tránh được “tam nghiệp” là: ý nghiệp, thân nghiệp và khẩu nghiệp”, tức là dứt bỏ được ba mối chướng ngại, làm cho con người phải chịu luân trầm trong biển khổ, sông mê.
Từ xưa đến nay, lịch sử thường ghi chép biết bao tội ác của loài người mà nguyên nhân chung là bởi không biết giữ được những điều răn cấm ấy mà ra vậy.
Phàm, tâm tánh con người vốn của Trời phú cho nhưng tình dục lại do chỗ cảm xúc ngoại vật mà phát sanh. Tình dục là mối dây oan nghiệt trói con người trong vòng Nhơn dục mà xa Thiên lý. Vậy muốn trở lại con đường Thiên lý, trước phải khép chặt lục căn, không cho lục trần dấy động. Phải giữ cho được mắt chay, tai chay, mũi chay, lưỡi chay, thân chay, ý chay, tức là “Lục trai” đó.
Lục căn chay tịnh rồi thì lục trần hết chỗ dựa, tự nhiên tiêu diệt. Đó là phép “chánh bổn thanh nguyên” nghĩa là: sửa gốc cho thẳng thì ngọn tất thẳng, làm nguồn trong thì nước tất trong.
Song lẽ đó chỉ là dẹp giặc bên ngoài, còn Tâm thì giặc bên trong cần phải chay mới được.
Tâm chay có nghĩa là tâm phải phủi sạch trần duyên, Tâm mà tham muốn lợi danh, tức bị lợi danh ràng buộc. Sự ham muốn vốn thiên hình vạn trạng, nhưng tóm lại là ở lòng tham sống, lòng tham sống thúc đẩy con người quyến luyến hồng trần quay cuồng trong vòng sa mê vật chất, tự tạo khổ cho mình mà không tự biết.
Nếu biết thâu cái vọng tâm lại đừng cho nó phóng túng ra thiên hình vạn trạng thì có gì là khổ nữa đâu?
Cái tâm mà không ham muốn, không tưởng, không lo thì ngoại vật hết thâm nhập, mà nội niệm cũng không sanh được.
Tâm có mà như không, ấy là sắc tức thị không, mà tâm trần chết thì tâm đạo phát sanh, ấy là không tức thị sắc.
Việc tu hành cốt yếu là trau cái tâm cho trong sạch, hầu ngày sau được tiêu diêu tự tại nơi Niết Bàn Cực Lạc. Nay ta còn chen lấn trong trần tục, mà giữ được Tâm chay tức là gặp Niết Bàn tại thế vậy.
ĐỊNH
Định: Giặc bên ngoài đã dẹp, giặc bên trong hết dậy đó là đến thời kỳ “xây dựng”, tức Thiền định.
Thiền định đại khái là ngồi yên lặng, chú tâm vào một chỗ mà suy ngẫm đạo lý nhiệm màu.
Thiền định có nhiều cách, nhiều bực, khởi đầu là tập trung tư tưởng, nghĩa là luôn luôn chú tâm tư tưởng vào một vật, không giây phút nào xao lãng. Cách tập ấy rất khó khăn, vì trí người thường bông lông bất định, đương tưởng việc nầy chưa xong lại bắt tưởng qua việc khác.
Vì ý và tâm khó câu thúc như ngựa và vượn chạy nhảy phóng túng và leo trèo lăng xăng nên nhà Phật gọi là “ý mã tâm viên”.
Tập trung tư tưởng không khác nào cầm cương ngựa chứng, càng kềm thúc, nó càng hung hăng nhảy đá. Nhưng nếu bền công tập luyện đúng giờ đúng khắc lâu ngày chầy tháng viên mãn công phu, thì thần trí mình được yên tịnh vững vàng hết lau chau phóng túng.
Lúc bấy giờ mới nên bắt đầu nhập định. Trước nhứt phải tập theo phương pháp hữu hình, nghĩa là lựa một vật hữu hình làm đối tượng rồi suy cứu cho cùng tận đặng biết rõ vật ấy hình tượng thế nào, làm bằng chất gì, công dụng ra sao, v.v...
Lần lần bắt qua tưởng gẫm một vật vô hình hoặc một vấn đề triết lý cao thâm, siêu việt.
Về triết lý người ta nên tưởng gẫm những vấn đề về bác ái, từ bi, sự chơn khoái lạc ở đời, cái nguồn cội và chỗ trược thanh của muôn vật
Được công phu đầy đủ về phép thiền định vô hình rồi, người ta mới tập qua phép “vô vi đại định”.
Đại định thời không tưởng điều chi nữa hết mà cứ để thần trí yên lặng hư không, không còn chấp trước, mà hễ hết chấp trước cảnh vui tức là hết sanh mừng, cũng như hết chấp trước cảnh khổ thì hết sanh buồn bực v.v...
HUỆ
Huệ: Giữ được “tịnh tự” như vậy rồi “định lực” mới phát triển sanh Huệ.
Huệ là gì? Là cái trí huệ, cái tinh mẫn khôn ngoan nhờ đó mà diệt được “vô minh” thấy rõ cái chơn tướng, cái hiện tượng quá khứ, hiện tại và vị lai của muôn vật. Cái Huệ nhà Phật gọi là “bát nhã”. Nhờ cái Huệ người tu mới đưa mình qua bên kia bờ Đạo (giác ngạn) nên cũng gọi là “Bát nhã ba la mật đa” (prajnaparamita).
Trí Huệ vốn khác Trí Thức: Phàm việc chi có học hỏi mới biết là nhờ Trí Thức nên gọi là Thế Trí, không học mà biết tự nhiên là nhờ Trí Huệ nên gọi là Xuất Thế Trí.
Chúng ta từng thấy trong giới tu hành, có người tuy học lực tầm thường hoặc dốt nát, nhưng đạo lý cao thâm, luận thuyết siêu thường, khiến người có trí thức phải đem lòng thán phục, đó là nhờ phát Huệ vậy.
NGHĨA VỤ
Nghĩa vụ là bổn phận phải làm theo những nghĩa lý ở đời. Bất cứ người nào cũng phải có nghĩa vụ. Mặc dù, đối với việc thiện hay việc ác, ta tự do muốn làm hay không làm tùy ý, nhưng nghĩa vụ buộc ta phải làm việc nọ, tránh việc kia.
Ví dụ đi đường ta thấy một đứa bé vấp ngã không ngồi dậy được, ta có thể làm lơ bỏ đi vì có ai buộc ta đỡ nó dậy đâu, nhưng ta không nỡ bỏ đi, rồi ta lại đỡ nó dậy, và xem nó có bị thương hay không, hầu tìm phương cứu cấp. Hành động ấy chính do nghĩa vụ thúc đẩy ta làm.
Một ví dụ khác: Hai người đi dọc bờ sông thấy một kẻ té xuống đó. Hai người ấy trong lúc bất cập, họ không cần suy nghĩ, và cũng không ai bảo ai, đồng nhảy xuống sông vớt người lâm nạn lên. Đó là họ biết trọng tinh thần nghĩa vụ. Hơn nữa cái tinh thần nghĩa vụ ấy tiến đến chỗ hi sinh tánh mạng mình để cứu tánh mạng của kẻ khác.
Nếu mọi người biết làm tròn nghĩa vụ, mặc dầu không ai buộc ai làm, thì ngoài xã hội sẽ không thấy cảnh trái tai gai mắt và bất công, các ngành hoạt động xã hội sẽ không một giây phút nào ngưng trệ, và đời sống con người cũng sẽ được dễ dàng.
Trong Đạo mà biết trọng tinh thần nghĩa vụ, thì mọi công việc của Đạo sẽ được điều hòa và tiến mạnh trên đường phục vụ chúng sanh. Chúng ta sẽ không còn đau lòng xem thấy những cảnh thờ ơ, lười biếng, những tâm hồn uể oải, những việc làm cho lấy có nữa. Chừng đó thì đối nội chúng ta sẽ không còn điều chi thắc mắc, vì guồng máy hành Đạo sẽ hoạt động điều hòa cùng một nhịp. Đối ngoại chúng ta sẽ thâm nhập cảm tình của công chúng.
Đành rằng đối với tất cả người trong Đạo, nghĩa vụ có chỗ khác nhau; nó phải tùy theo khả năng của mọi người. Nhưng nghĩa vụ nào cũng cao cả, mà người làm tròn nghĩa vụ, bao giờ cũng thấy tâm hồn khoan khoái, và lương tâm an tịnh. Đó là một phần thưởng vô hình, mà tất cả những phần thưởng hữu hình trên thế gian nầy không bao giờ sánh bằng, nhứt là khi chúng ta làm tròn nghĩa vụ giữa cơn sóng gió bão bùng, xuyên qua mọi thử thách gay go, và giữa cảnh thăng trầm của Đạo.
Vốn có nhiều thứ nghĩa vụ: Nghĩa vụ đối với chính mình, nghĩa vụ nầy buộc chúng ta phải biết tự trọng, biết kiềm chế lấy mình, để thực thi những cái gì chánh đáng, cái gì tốt đẹp, cái gì hữu ích.
Nghĩa vụ đối với chức vụ buộc chúng ta phải làm tròn cái trọng trách, cái Thiên mạng mà Ơn Trên giao phó cho chúng ta. Nghĩa vụ đối với xã hội buộc chúng ta phải thương người mến vật và tận tâm phục vụ xứ sở và nhơn sanh.
Còn nghĩa vụ đối với Thượng Đế thì vô bờ vô bến. Chúng ta phải phục vụ Ngài với một tinh thần cao cả, đưa chúng ta đến chỗ xả thân. Vì Thiên luật vạn vật trên thế gian này phải xả thân để giúp đời mà tấn hóa. Khoáng vật xả thân cho thảo mộc tấn hóa, thảo mộc xả thân để giúp thú cầm tấn hóa, rồi thú cầm cũng phải xả thân để giúp cho loài người mà tấn hóa thêm lên, đến loài người cũng phải xả thân giúp đời để tấn hóa lên ngôi vị Tiên Phật.
Tóm lại, tinh thần nghĩa vụ là một định luật Thiêng Liêng ngấm ngầm thúc đẩy con người vào những công tác lợi tha và hi sinh cho một lý tưởng cao cả, để góp phần xây dựng đời sống tinh thần lẫn vật chất của con người ngoài Đời cũng như trong Đạo.
KIẾP LUÂN HỒI
Điểm Linh Quang (Hồn) thác sanh xuống cõi phàm mục đích để học hỏi kinh nghiệm và tấn hóa. Chuyển sanh xuống cõi sắc giới tất phải mượn xác thân mà hành động. Càng hành động càng tạo nhơn. Tạo nhơn, linh hồn tái sanh phải trả quả.
Theo Thánh giáo, kiếp luân hồi là sự tiến chuyển của điểm Linh Quang, bắt đầu từ vật chất này chuyển qua vật chất khác; luân chuyển trong muôn ngàn kiếp như vậy. Rồi bỏ vật chất tiến hóa lên thảo mộc, đoạn bắt đầu từ thảo mộc mà chuyển lên bực thú cầm; thoát kiếp thú cầm mới đến kiếp nhơn loại. Ấy vậy, vật chất, thảo mộc, thú cầm, nhơn loại là loài hữu sanh nên gọi chung là chúng sanh. Nhơn loại là bậc cao nhất trong loài chúng sanh, nên gọi là Thượng Sanh. Đến kiếp người rồi linh hồn còn phải luân chuyển ngàn ngàn muôn muôn lần nữa mới đến tột bực nhơn phẩm (Thượng Phẩm).
Nhơn phẩm trên mỗi địa cầu chia ra thành nhiều hạng. Theo Thánh giáo địa cầu chúng ta ở là địa cầu 68. Thượng đẳng nhơn sanh nơi địa cầu này, kể luôn về tinh thần vật chất, vốn không bằng bực chót nhơn phẩm ở địa cầu 67. Đệ nhứt nhơn phẩm ở địa cầu 67 lại cũng chưa bằng bực chót của địa cầu 66 v.v...
Cái giá trị của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài cho tới đệ nhứt cầu và Tam Thiên thế giới. Đó là phần thế giới hữu hình. Thoát khỏi thế giới hữu hình, linh hồn bỏ xác phàm tiến hóa lên cõi vô hình. Một cách siêu việt hơn, cao thượng hơn, rồi còn phải chuyển kiếp tu hành nữa cho đến khi đặng trọn lành (toàn giác) mới có thể lên đến Bạch Ngọc Kinh là nơi Đạo Phật gọi là Niết Bàn vậy.
Xem thế đủ biết nhơn phẩm chia ra thành nhiều đẳng cấp là dường nào. Linh hồn phải trải qua biết mấy ngàn muôn kiếp mới đặng trọn lành mà về căn bổn.
Nếu kẻ không tu hành làm đủ phận người, công bình chánh trực, khi hồn xuất khỏi xác rồi thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà chuyển kiếp lại nữa, thì linh hồn biết đời nào thoát nạn luân hồi?
Vì lòng đại từ, đại bi, không nỡ để sanh linh chịu mãi cái nạn luân hồi, nên Đức Chí Tôn mới lập “Tam Kỳ Phổ Độ” cứu cánh là mở cho nhơn loại một con đường giải thoát, lại ban ân huệ rất lớn lao đặc biệt cho cả Càn khôn, Thế giới, ai ngộ được một đời tu cũng trở về cựu vị. Xem đó đủ biết Đạo quý trọng là dường bao, và khai Đạo kỳ ba này lớn lao cao thượng là thế nào.
Một lần Đạo Trời khai là mỗi lần đại ân xá cho cả chơn linh chìm đắm giữa sông mê biển khổ. Muôn năm ngàn kiếp mới gặp một lần. Cơ hội này mà không tu, sau ăn năn rất muộn.
Đức Chí Tôn có dạy:
Biển khổ chơi vơi lằn sóng đập,
Mau chơn kẻo trễ bước con đò.
Mau chơn kẻo trễ bước con đò.
LUẬT NHƠN QUẢ
Tạo hóa vốn chí công, không vì thương mà thưởng, không vì ghét mà phạt. Ngài chỉ lập ra luật “Nhơn Quả”, cũng gọi là luật “Báo Ứng”, là cái quy tắc định rằng hễ nguyên nhân như thế nào, thì nhứt định có kết quả như thế ấy, không một mảy sai chạy. Vậy, ai tạo nhơn lành sẽ hưởng quả lành, ai tạo nhơn dữ ắt rước quả dữ.
Cái quả vốn là kết quả cái nhơn của chúng ta tạo ra trong kiếp trước, hoặc kiếp này. Rồi cái quả ấy lại làm nhơn cho cái quả khác sẽ báo ứng về sau. Nhơn và quả tiếp tục báo ứng như ảnh tùy hình, mà buộc trói con người trong vòng nghiệp báo.
Có hai thứ nghiệp báo: Biệt nghiệp và Cộng nghiệp
I.- Biệt nghiệp: Là quả báo riêng từng người ai tạo nhơn là nấy thọ quả.
II.- Cộng nghiệp: Là quả báo chung cho nhiều người. Như nhiều kẻ đồng phạm một việc ác, khi đền tội, phải chịu hậu quả một lượt với nhau.
Lại có nhiều kẻ, tuy tạo nhơn khác nhau, song tội đồng nhứt thể nên đến khi trả quả, cũng chung chịu với nhau một lượt.
Lại có khi một người làm ác mà nhiều người đều hưởng lợi, thì cũng chịu chung một cộng nghiệp.
Tất cả nạn nhơn của một tai họa lớn như động đất, bão lụt, chìm tàu, hỏa hoạn, bệnh khí, chiến tranh, v.v... đều là những người chịu một quả báo chung vì họ đã đồng tạo một ác nghiệp.
Mặc dầu xa lạ nhau, mặc dầu kẻ nam người bắc, Thiên cơ xui khiến thế nào cho họ hiệp nhau một chỗ đặng đền tội chung một lượt.
THỜI GIAN BÁO ỨNG
Bất câu một nguyên nhân nào cũng có cái tánh cách tự nhiên là đem lại cái kết quả cấp kỳ. Nhưng thường lại có một nguyên nhân khác xen vào phản ứng làm cho cái kết quả ấy phải hoãn lại một thời gian.
Tỷ như chúng ta để ngón tay vào lửa (nguyên nhơn), chúng ta ắt bị phỏng liền (kết quả cấp kỳ). Nhưng nếu chúng ta dè dặt bao bọc ngón tay bằng một chất thuốc gì có cái công hiệu che chở, thì là chưa bị phỏng liền. Lửa cần phải đốt hết chất thuốc ấy rồi mới bắt qua ngón tay.
Lớp thuốc ấy vốn là (nguyên nhơn phản ứng).
Như ở các nước thuộc miền ôn đới như nước Việt Nam, phàm giống lúa hễ gieo xuống (nguyên nhơn) là nứt mộng lên mau (kết quả).
Nhưng ở các xứ lạnh, lúa lại chậm lên là tại tuyết giá cản ngăn. Tuyết giá vốn là nguyên nhân phản ứng.
Một đứa bé chơi nghịch (nguyên nhơn), Cha nó bắt nó nằm xuống mà răn phạt (kết quả). Trong lúc người đưa roi lên sắp đánh, bỗng có một người bạn đến thăm. Người cha phải hoãn sự răn dạy lại đặng tiếp khách.
Sự khách đến vốn là nguyên nhơn phản ứng.
Cũng vì luật “phản ứng” mà cái quả của một thiện nhơn hay một ác nhơn có khi không báo ứng ngay trong kiếp tạo nhơn. Chúng ta vẫn thấy có nhiều kẻ bạo tàn ác đức mà lại giàu sang sung sướng, nghinh ngang hống hách với đời, là bởi họ đương hưởng cái quả của thiện nhơn họ đã tạo trong kiếp trước. Nhưng một khi đã tận hưởng quả lành, thì ngay trong kiếp đương sanh, hoặc trong kiếp tái sanh, họ sẽ chịu khổ của cái ác nhơn mà họ đương tạo.
Đối với thời gian, sự ứng quả có ba cách:
1.- Nghiệp báo ứng ngay trong đời tạo nhơn gọi là Đương Kiếp Nhơn Quả hay Thuận Hiện Nghiệp.
2.- Nghiệp báo ứng theo cái nhơn tạo trong kiếp trước, gọi là Tiền Kiếp Nhơn Quả hay Thuận Sanh Nghiệp.
3.- Nghiệp báo ứng ở kiếp sau do cái nhơn hiện tại, gọi là Hậu Kiếp Nhơn Quả hay Thuận Hậu Nghiệp.
ĐỜI VÀ ĐẠO
Đạo chúng ta đã hiểu là gì rồi, đây xin định nghĩa chữ Đời.
Đời là cõi thế gian, hiểu rộng ra là tất cả những người sống trong cõi thế gian, tức quần chúng vậy.
Đạo vốn Thiêng Liêng vĩnh cửu.
Đời thì hữu sanh hữu diệt.
Đời và Đạo tuy tương phản nhưng vẫn liên quan như bóng với hình. Đức Chí Tôn đã dạy:
“Buổi lập Chánh Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không có tội lỗi đâu đến nhọc công Thầy”.
Vậy Đạo sở dĩ lập ra là để cứu giúp đời. Nếu không có đời, Đạo lập ra có ích gì?
Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng lại dạy rằng:
“Đời lấn Đạo, Đời xa cội phước,
Đạo dìu Đời, vận nước mới an.
Đức lập quyền, dân được châu toàn,
Quyền xua Đức, nhơn gian thống khổ...”
Đạo dìu Đời, vận nước mới an.
Đức lập quyền, dân được châu toàn,
Quyền xua Đức, nhơn gian thống khổ...”
Đời sanh hoạt thì Đạo giúp đời, sanh hoạt theo lẽ Bảo Sanh, Nhơn Nghĩa, Đại Đồng. Người tu hành mà không thiết đến nhơn quần xã hội là hoài bão một quan niệm sai lầm, cũng như người xã hội không đồng hành theo lẽ Đạo chẳng khác nào con thuyền không lái.
Đạo là vô vi, Đời là hữu hình. Vô vi và hữu hình phải liên đới nhau như hồn với xác.
Như cây đèn: Luôn về ngọn lửa là vật hữu hình, tỷ là Đời. Còn cái ánh sáng dọi ra là vô vi, tỷ là Đạo. Người ta làm cây đèn chớ không làm ánh sáng (vô vi) mà hễ thắp đèn tự nhiên có ánh sáng.
Như cái chén: Làn gốm ngoài là vật hữu hình, tỷ là Đời. Còn cái lòng trống ở trong là vô vi, tỷ là Đạo. Người ta làm cái chén chứ không làm cái lòng ở giữa (vô vi): mà hễ làm cái chén, cái lòng trống ở giữa tự nhiên phải có.
Như cái cửa: Luôn vừa khuôn, vừa cánh cửa là vật hữu hình, tỷ là Đời, còn cái khoảng trống để vô ra là vô vi, tỷ là Đạo. Người ta làm cái cửa chớ không làm cái khoảng trống ấy (vô vi) mà hễ làm cái cửa, cái khoảng trống ấy tự nhiên phải có.
Như một cái bánh xe: luôn về vành tròn và cái hoa cửi là vật hữu hình, tỷ là Đời. Còn cái lỗ để tra cốt vào cho bánh xe quây là vô vi, tỷ là Đạo. Người ta làm cái bánh xe chớ không làm cái lỗ cốt (vô vi) mà hễ làm cái bánh xe cái lỗ cốt ấy tự nhiên phải có.
Cây đèn, cái chén, bánh xe, cái cửa là vật hữu vi. Người ta sở dĩ chỉ tạo mấy vật ấy là để ứng dụng cái chỗ vô vi của nó mà thôi.
Vậy người đời phải có Đạo, nghĩa là phải theo một tôn giáo nào tùy sở thích, vì tôn giáo (gác ra ngoài những lẽ huyền vi mầu nhiệm) vốn là kim chỉ nam cho mọi hành động của con người trong khuôn viên đạo đức, tinh thần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét