Thứ Năm, 3 tháng 2, 2011

ĐẠI ĐẠO HỌC ĐƯỜNG 02

PHẦN LUÂN LÝ

SỰ LÀM VIỆC LÀ MỘT ĐỊNH LUẬT

Sự làm việc là luật thiên nhiên phải tuân theo đặng tự tạo đời sống, tùy khả năng và sở thích của mỗi người. Chẳng phân giàu nghèo, chẳng luận nam phụ lão ấu, ai cũng phải làm việc, để trở nên người hữu dụng vừa cho mình, vừa cho gia đình mình, và cho xã hội.
1.- Hữu dụng cho mình.
a/- Con người thuở còn ấu thơ đã phải lo làm việc rồi, bằng cách vào trường học tập đặng mở mang trí hóa vì bởi “học nhi tri chi” (học mà biết) chớ chẳng phải “sinh nhi tri chi” (sinh ra mà đã biết).
b/- Đến tuổi thành nhơn, một mình bương chải với đời, phải tiếp tục làm việc, còn cực nhọc hơn ở trường, đặng tự sống, chớ không trông ai vùa giúp cho được. Như thế mới khỏi chiều lòng ai, khỏi bị ai nặng nhẹ hà khắc. Như hữu học, thì làm việc bằng trí óc, còn ít học, thì làm bằng tay chơn, không có nghề nào hèn hạ, chỉ có người lười biếng mới hèn.
c/- Tuổi già cũng còn làm việc, không nặng thì nhẹ, đặng giữ gìn sức khoẻ hầu tránh làm khổ nhọc cho con cháu.
d/- Phận nữ lưu, cũng cần làm việc như hạng nam nhi, chẳng nên cho mình là liễu yếu đào thơ, rồi ỷ lại nơi chồng con, mà ngồi không luống sức. Đành rằng lo tề gia nội trợ, là một bổn phận trọng yếu trong tư thất, nhưng ngoài ra còn bổn phận đối với đời, thế nào cho ra người có phẩm vị.
Làm việc có ích cho mình là vậy.
2.- Hữu dụng cho gia đình cho xã hội.
a/- Làm chủ gia đình, phải ân cần trong nghề nghiệp, mới có phương nâng đỡ gia đình, sống vui trong cảnh cơm no, áo ấm. Chẳng những như vậy thôi, mà nhờ có làm mới dư tiền để xây trở phòng khi hữu sự, như quan hôn tang tế, hay lúc phong võ bất kỳ.
b/- Làm chủ gia đình được giàu, thì nên thi ân bố thí bồi lộ tu kiều, cất học đường, tạo cấp cô viện, v.v…
Còn dư giả nữa thì kinh doanh sự nghiệp mở mang kinh tế giúp cho xã hội thêm giàu, cho quốc gia thêm mạnh.
c/- Nếu nghèo thì tùy phận mà xử sự, chớ chẳng vì nghèo mà vị kỷ vong tha hay không giữ gìn nhân vị.
Tổng kết:
Sự làm việc là điều cần thiết của sự sống. Đó là một định luật bất di bất dịch, không ai qua luật ấy mà được toại kỳ chí yên kỳ thân cho lâu dài được.
Cho hay mỗi người đều có phẩm giá cá nhân rất nên quí trọng, thì không vì lẽ nhu cầu đời sống mà không lo hoạt động thế nào cho việc cân xứng với bản năng thuần túy của mình. Vả lại, giữa thời đại văn minh này, sự làm việc của người ta có ảnh hưởng nặng nề vào phẩm chất, và càng đi sâu xa thời ảnh hưởng càng công hiệu. Lẽ dĩ nhiên, để hành động cho được việc, điều có lợi là phải ngó tới việc phải làm, và hình dung trước cái có thể làm, nhiên hậu sẽ làm, hoặc cái không thể làm, nhiên hậu sẽ chừa bỏ.
Đó là điểm để phân biệt người ra khỏi giống thú, là giống không có trí khôn, chỉ hành động theo cảm giác, nhứt thời tha hồ, thì cứu cánh sẽ dẫn đâu hay đó.
Vậy thì cần yếu là trong khi làm việc phải để ý tứ và lương tâm vào đấy, sẽ thấy cái thú vị của đời sống, hầu theo đuổi nhiệm vụ cho đến kỳ cùng mà không biết chán.
Đã nhận định rằng sự làm việc là hữu ích, thì nó không riêng cho người đời mà là chung cho cả người đạo nữa.
Nếu cho rằng đã phủi hết thế sự, đặng vào cửa từ bi cho an nhàn trí não mới yên ổn thân sanh, rồi hằng ngày trầm tư mặc tưởng, không làm gì hết, ấy là lầm. Vì bởi cuộc vay trả nghiệp xưa chướng cũ chưa xong, mong gì giải thoát.
Tuy vẫn trong cửa Đại Đạo không còn những sự tranh danh đoạt lợi, những điều hơn kém, mạnh được yếu thua, nhưng sự làm việc vẫn còn là bổn phận Thiêng Liêng của mỗi người, để lập công bồi đức, và dọn mình cho ra người xứng đáng, để độ đời cứu thế.

ÁP DỤNG SỰ LÀM VIỆC TRONG ĐẠO ĐỜI
(Phổ độ lập công quả)

Sanh trên cõi trần này, bá nhơn, bá tánh, mỗi người được tự do riêng tạo đời sống theo chí hướng, hoặc sống chung lộn theo người thế gian, hoặc sống tổ hợp với người tôn giáo. Tuy khác quan niệm, giới nào cũng lấy sự làm việc làm căn bản để đạt thành sở nguyện của giới mình. Đây nói về nhà tôn giáo thì chẳng phải phế hết thế sự, tùng cửa Đạo rồi sớm kệ chiều kinh là rồi bổn phận. Người Đạo còn có sứ mạng Thiêng Liêng cao thượng hơn mà người đời không có, là sự hi sinh để làm công quả và lo phổ độ.
Công quả:
Đức Chí Tôn đã dạy:
“Người dưới thế gian này muốn giàu có phải kiếm phương thế làm ra tiền. Ấy là về phần xác thịt, còn muốn đắc Đạo phải có công quả”.
Hai chữ công quả có nghĩa thiển cận là hễ ra công trồng cây thì hằng bữa cố gắng chăm nom săn sóc cho đến ngày đơm bông kết trái, tức là ngày hưởng lộc thì công trồng mới không phải uổng.
Còn suy diễn ra, thì công quả có nghĩa là một mặt để hết tâm tánh giúp ích cho nền Đạo và một mặt dụng công lao làm phương tương công chiếc tội, lấy khổ hạnh làm cứu cánh thoát luân hồi, mới mong có ngày đắc Đạo.
Vả chăng những phẩm tước và quyền hành chỉ là những hình thức bề ngoài, quan hệ về sự đặt ngôi phân thứ, để giữ gìn trật tự nghi tiết, giữa chốn đông người, chớ kỳ trung điều trọng yếu của nó là ở bên trong của từng cá nhân, khuôn luật chuẩn thằng buộc Chức Sắc Thiên phong không được bán đồ nhi phế, mà phải thất đạo tâm. Chừng ấy dầu Chức Sắc lớn bậc cũng chưa ắt giữ còn áo mão.
Trái lại, Đạo hữu tu cam phận nhỏ nhen mà đầy đủ thiện chí, phụng sự không màng cực nhọc khó khăn, quyết lòng tự lập, không cầu nài phong thưởng, nhưng rồi sự phong thưởng tự nhiên, vô triệu nhi lai, nêu gương sáng cho người khác noi theo để bước.
Thiết tưởng cửa Đạo là nơi để cho cả sanh linh được thư thả làm nhà chung, hầu tìm nét yêu thương, hưởng nguồn hạnh phúc, mà được cùng chăng là do công quả nhiều hay ít, và sự thật tâm cùng không của mỗi người nơi đó.
Phổ độ:
Sanh nhầm đương kiêm thời đại, thiên hạ đảo huyền, luân thường suy bại, con người vì nhu cầu vật chất mà không diệt tánh bạo tàn, nên sự yêu thương và nét công bằng đã khuất dạng theo thời gian, đời sống hiện giờ chỉ là đời sống khổ.
Cho hay mối Đạo là mối dây kết chặt tình thương, thì người nhập Đạo là người có bổn phận phổ truyền giáo lý, độ dẫn quần linh, tương trợ tương thân, tránh đường tội lỗi.
Phổ độ chúng sanh bằng cách nầy hay cách khác tức là phương mầu nhiệm để lập vị Thiêng Liêng. Vì vậy nên Đức Chí Tôn buộc mỗi người trong Đạo, từ Chức Sắc đến Đạo hữu lưỡng phái phải độ cho được ít nhứt là 12 người nhập môn (Thánh ngôn ngày 27 tháng 8 năm 1926)
Ví bằng chẳng ra công độ rỗi, thì ngày về Bạch Ngọc Kinh chỉ với hai tay không, bao nhiêu công phu tu luyện ở cõi trần sẽ là công dã tràng.
Tổng luận:
Sự làm việc trong cửa Đạo là cần thiết cho đời sống của kẻ xuất thế ly gia, để phụng sự thiên hạ mà không mất phần mình, tức là mình được “tiên tự giác nhi hậu giác tha” đã có phần công quả lại thêm công phổ độ. Nếu tưởng rằng một khi đã phế nhơn sự lo việc tu hành, rồi cứ mơ tưởng luyện Đạo cho mau thành Tiên tác Phật ấy là lầm. Vì bao giờ công quả còn kém, nhơn sự chưa rồi, và chẳng có một tác động gì gọi là đại chí, thì dễ gì mong đứng ngang hàng với các Đấng Thiêng Liêng cho đặng.

NHIỆM VỤ MỘT CHỨC SẮC THIÊN PHONG
ĐỐI VỚI ĐỜI, ĐỐI VỚI ĐẠO

Mang Thiên chức vào thân, vị Chức Sắc Thiên Phong của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ không còn là người của mình hay của gia đình mà là người đã chịu hi sinh làm con tế vật dâng cho Đức Chí Tôn sử dụng để cứu nhơn độ thế.
Vậy thì Chức Sắc Thiên Phong có sứ mạng Thiêng Liêng thể thiên hành hóa, tức có bổn phận đem Đạo giải khổ cho chư quần linh trong thời mạt pháp này.
Nhiệm vụ nầy kiêm cả hai mặt Đạo và Đời. Tuy Đời và Đạo không chung một quan niệm, một chủ nghĩa, Chức Sắc là kẻ ở trung gian sẽ làm dây nối liền cho đôi bên tương đắc. Bằng chẳng vậy thì hoài công phổ độ.
1.- Đối với Đạo:
Chức Sắc cầm quyền không nên dùng cách hành phạt, mà nên dạy dỗ khuyên lơn cho Đạo hữu lỗi lầm biết hồi tâm hướng thiện.
Thiết tưởng Đạo hữu là kẻ ít phước không được thường nghe Thánh giáo, nên cam phận bất thông chơn pháp, thì Chức Sắc bề trên nên tự mình gần gũi đàn em, đặng mở vòng u ám cho chúng dễ bề tu luyện. Nếu cứ ở trên nhìn xuống thấy đồng Đạo thấp hèn, rồi đem lòng khinh bạc, là mình thất Đạo mà không hay đó vậy.
Chẳng giống với quyền Đời dùng nghiêm luật để cai trị, quyền Đạo chỉ lấy công ái để dỗ dành. Vị Chức Sắc cần giữ gìn đức hạnh cho hoàn toàn, chỉ biết bố đức hơn ra oai, thi ân hơn lập pháp mà thôi. Càng thân cận kẻ dưới, người bề trên càng nên rộng lượng khoan dung mà dìu độ.
Đức Chí Tôn đã dạy: “Độ một kẻ hung hăng còn khó hơn độ một nước”. Trong trường hợp này vị Chức Sắc phải nhọc công lắm sức, chẳng tiếc lời khuyên, không thẹn hạ mình hầu làm nên cho kẻ khác. Đặng vậy thì Công mới thành, Ngôn mới chánh, Đức mới rạng.
2.- Đối với Đời:
Người đời vì nhu cầu vật chất, xa hẳn đạo tâm, cứ giữ chặt tánh phàm đặng chiếm phần đắc lợi dám làm tội mà quên phải đền tội.
Để giúp cho kẻ lầm lạc đang sa đắm trong vòng nghiệt chướng, được giải thoát tai nàn, vị Chức Sắc có bổn phận giải rõ chơn giáo cho người đổi tâm hướng thiện. Ấy là bổn phận đối với từng cá nhân ở Thế.
Đối với xã hội, còn cái nhiệm vụ trọng yếu khác là tạo nên tình yêu ái trong khuôn viên đạo nghĩa luân thường. Nhơn hòa tâm hiệp thì tình cảm nảy sanh, vị Chức Sắc ngoan khéo sẽ dụng phương điều hòa các tình cảm cá nhân làm một khối thương yêu của xã hội, thì nơi nầy là nơi người Đời nhờ Đạo được sống hạnh phúc ngoài lề thống khổ.
Phương chước đầu tiên là lấy lễ đãi người, nhiên hậu sẽ dĩ đức phục nhơn là thượng sách.
Sau này vị Chức Sắc còn có trách nhiệm đối với nhà cầm quyền Đời Đạo vì bởi:
Đạo không Đời không sức.
Đời không Đạo không quyền.
Muốn cho dân được giáo hóa trở nên dân lành, biết tuân luật pháp quốc gia thì phải nhờ có Đạo hướng dẫn, nhưng cần phải có quyền Đời giúp sức Đạo mới thành công. Trái lại nếu Đạo không đủ phương tiện giáo hóa, để dân trở nên bạo tàn đạp đổ luân thường đạo lý, khuấy rối an ninh, quyền đời phải can thiệp trấn áp, ắt sanh loạn.
Song thế thường Đời ít khi cộng tác với Đạo mặc dầu là việc hữu ích cho Đời hơn là cho Đạo. Vị Chức Sắc phải làm thế nào cho Đạo Đời tương đắc mới tròn nhiệm vụ.
Tổng kết:
Chức Sắc Thiên phong phải luôn giữ mình cho xứng phận người cầm đuốc huệ soi sáng, cho đời bớt cạnh tranh về vật chất và hướng về tâm linh, mới mong xây dựng được đại đồng thiên hạ.

ĐỜI SỐNG ĐƠN GIẢN VÀ THANH BẠCH

Cuộc sống ở đời có nhiều hình trạng khác nhau, vì nhơn sự ai nấy sáng, và cách xử sự không ai giống ai, mới xuất hiện những tấn tuồng ai bi khổ não, mà miệng thế gian cho rằng Đời là khổ không phải là quá đáng. Vả chăng Đấng Tạo Hóa háo sanh vô lượng không hề tạo khổ cho ai, thoảng như có khổ là do mình tự triệu. Như có thừa thì xa xí, không đủ thì bỏn sẻn, không ngăn cấm thì hoang dâm, không tiết độ thì hại thân, buông thả lòng dục thì hư hỏng. Đó là những nguyên nhân làm cho nền trật tự xã hội phải chinh lịch, và giá trị con người phải tổn thương, rồi phải bao nhiêu khổ tâm đặng thoát vòng khổ lụy.
1.- Sống đơn giản:
Đơn là đơn sơ, giản là giản tiện, sống đơn giản thì không có điều gì mà phải bất cập hay thái quá.
Đành rằng đối với đời sống, cái ăn và cái ở là cần thiết, nhưng ăn đặng sống, chẳng phải sống đặng ăn.
Sách có chữ “tri túc thường lạc, đa tham tắc ưu”. Nghĩa là biết đủ thường vui, nhiều tham ắt lo. Người tri túc, dầu nghèo hèn cũng vui, tức là trị được cái khó tánh với cái bản ngã. Không tri túc thì dầu giàu sang cũng còn lo, tức là làm tôi cho cái dục vọng mà cái dục vọng thường hay khiến hư, và hư là khổ.
Người sống đơn giản chẳng những tránh được cái khổ nầy là một điều lợi lớn còn thâu thập được nhiều cái lợi khác là khỏi mất thì giờ, khỏi hao tiền của không bận rộn tâm trí.
Một diệu kế để yên vui trong cảnh sống đơn giản là cứ nhìn kẻ dưới sẽ thấy mình đủ. Và đó cũng là phương mầu cho người Đạo áp dụng để răn lòng đừng ham muốn theo thường tình thế sự mà gây oan nghiệt.
2.- Sống thanh bạch:
Thanh là trong, bạch là trắng. Sống thanh bạch là sống trong sạch với sức lực và tài năng của mình mà thôi.
Như đã có của còn làm điều phi nghĩa đặng giàu thêm, hay đã nghèo lại làm chuyện bất minh cho hết nghèo, thì đời sống phải bợn nhơ nhục nhã. Những cái nhơ cái nhục nầy không kíp thì chầy sẽ rửa bằng sự đền tội, hoặc với cách nầy hay cách khác, nhưng không bao giờ tránh khỏi, vì luật công bình vay trả đã định vậy.
Nghĩ vì kẻ tiểu nhân thì vụ lợi, mà người quân tử thì vụ nghĩa, thành thử hai lý tưởng tương khắc và hai hành vi bất đồng, nhưng bao giờ lẽ phải cũng về với cái nghĩa. Bởi trong cái nghĩa đã sẵn chứa lòng nhơn, nên người quân tử ưu đạo bất ưu bần và vẫn sống trong vòng thanh bạch.
Người nhập Đạo rồi không còn ham luyến lợi trần nên thi hành triệt để Tứ Đại Điều Quy khoản 3, về tiền bạc thâu xuất phân minh và mượn vay lo trả, đặng giữ gìn đời sống thanh bạch.
Còn về đời sống đơn giản, thì tùy tiện không xa xí, theo điều thứ 15 Tân Luật là gương xả phú cầu bần xả thân cầu Đạo.
Tổng kết:
Thế sự hay biến đổi, đời người có lúc bỉ cực, có hồi thới lai và để đề phòng bất trắc nên tập trước cho quen sống đơn giản và thanh bạch thì bước đường vẫn được ung dung tự tại, dầu cho hoàn cảnh nào cũng vậy.

TINH THẦN KỶ LUẬT

Kỷ luật là những phép tắc do những tổ chức xã hội đặt ra để giữ gìn trật tự xã hội và điều hành trách vụ của các phần tử trong tổ chức.
Vả chăng ai cũng có ý thức rằng mình tự do. Ấy là một điều hiển nhiên. Vì bởi có tự do mới có nghĩa vụ ai cũng có nghĩa vụ, bắt buộc lương tâm làm cái này cái kia và chỉ có nghĩa là khi nào lương tâm đó tự do. Có tự do mới có trách nhiệm, mà ta có thể tránh trách nhiệm hay thi hành nếu ta muốn.
Điều cần yếu là chẳng nên có quan niệm rằng hễ tự do là được tự ý hành động lợi mình mà hại kẻ khác, thì sự hành động ấy chẳng những ra ngoài giới hạn tự do của mình mà còn vi phạm quyền tự do của kẻ khác.
Vì vậy mới có kỷ luật để bảo thủ sự tự do trong giới hạn của nó và ngăn ngừa sự tự do thái quá là nguồn sanh loạn trong quần chúng.
Có hai thứ kỷ luật: Kỷ luật khách quan và kỷ luật chủ quan.
1.- Kỷ luật khách quan:
Là kỷ luật do những tổ chức chánh trị bên ngoài cá nhân buộc cá nhân tuân theo. Ấy là luật pháp trong nước bất khả xâm phạm để giữ gìn trật tự cho toàn dân được an cư lạc nghiệp.
Trong các tổ chức xã hội khác như Thương mãi, Nghiệp đoàn, Giáo huấn, Tương tế, v.v... nơi nơi đều có kỷ luật để cho mọi người yên trí làm việc có hệ thống và theo phương pháp khoa học (không mất thì giờ, đỡ tốn phí) đặng tiến triển mạnh mẽ trong nghề và trong vòng trật tự.
Như Quân đội là một cơ quan để giữ gìn trị an trong nước và trật tự xã hội, tức là có phận sự bảo vệ tự do của nước và của dân cũng, phải có kỷ luật đặng trên dễ điều khiển, dưới phải trọn tuân mới đi đến kết quả thành công.
Nếu thiếu kỷ luật trong tổ chức thì người điều khiển dầu có tài năng cách mấy cũng không sao giữ vững nền tảng của tổ chức được.
Còn đã có kỷ luật mà vi phạm, là tự ý phá hoại quyền lợi của tổ chức.
2.- Kỷ luật chủ quan:
Là phép tắc tự cá nhân đặt ra cho mình tuân theo. Nếu vì sự sống, vì quyền lợi cá nhân, mà biết cư xử trong giới hạn tự do của mình, không xâm phạm giới hạn tự do của người khác, ắt tránh được sự tranh giành, đụng chạm thì sự sống và quyền lợi cá nhân không hề bị tổn thương bao giờ.
Kỷ luật trong Đạo:
Trong cửa Đạo là nơi trau dồi tánh dữ hóa hiền, sửa đương lòng ta trở thành tâm chánh, thì Tứ Đại Điều Qui và cách sắp đặt chỗ ăn, chỗ ở nam nữ phân biệt là kỷ luật khách quan.
Những chuẩn thẳng mực thước để tự buộc mình phải thi hành cho nên người xứng đáng hướng dẫn nhơn sanh trên con đường đạo đức là Ngũ Giái Cấm nói chung và nghiêm luật trong Tịnh Thất nói riêng, là kỷ luật chủ quan.
Tổng kết:
Tự do chơn chính phải ở trong kỷ luật, mà phục tùng kỷ luật là không phạm tự do chơn chính. Không phạm ấy là giữ được chữ hòa trong gia đình, trong xã hội luôn cả trong nước. Tinh thần kỷ luật giúp cho mỗi người tạo cái đời sống luân lý và luật pháp, tránh được những điều phiền phức trong xã hội.

NHƠN PHẨM

Nhơn phẩm là giá trị con người, tức danh giá cá nhân. Giá trị này cao hay thấp, nặng hay nhẹ, vinh hay nhục là tùy hành vi và tánh đức của mỗi người mà nhận định. Những kẻ nhơn từ, nghĩa khí, có bụng yêu đời, sẵn lòng giúp thế, là những người biết tôn trọng nhiệm vụ và nâng cao nhơn phẩm mình. Trái lại làm điều phi nghĩa, vị kỷ vong tha, là tự mình làm mất phẩm giá mình. Vậy thì nhơn phẩm không phải tạo bằng tiền bạc hay bằng chức vị xã hội mà bằng đạo đức luân lý vậy.
Vì bởi có sự trọng khinh nhơn phẩm, nên trong xã hội có hai hạng người: một hạng được người ta tôn sùng và thân cận là hạng quân tử, còn một hạng bị người ta chê bai và xa lánh là hạng tiểu nhơn.
1.- Quân tử:
Cố giữ danh giá cá nhân trong mọi hành tàng không để nhơn phẩm bị tổn hại bởi những cạm bẫy của bả lợi mồi danh. Chẳng những vậy thôi, người quân tử còn tôn trọng nhơn phẩm của kẻ khác trong mọi nơi và mọi dịp, bằng cách tránh cho họ những cạm bẫy ấy.
Thậm chí đến lúc khốn cùng, người quân tử không đổi chí hướng.
2.- Tiểu nhơn:
Vụ ở điều lợi riêng, bất kể phải quấy nhục vinh, kẻ tiểu nhơn không có tánh tình cao quý gì cả. Làm điều phi nghĩa, thất đức tức là tự mình coi rẻ nhơn phẩm mình, hồ dễ bảo ai tôn trọng mình cho đặng?
Nhơn phẩm trong cửa Đạo:
Vào Đạo đặng trước sửa mình sau làm gương cho kẻ khác; việc tu kỷ là bổn phận đầu tiên và càng chuyên cần chừng nào, nhơn phẩm của mỗi người càng thanh cao chừng ấy, và đã là người sống trong vòng mực thước chánh nhơn, hiền hòa, thì không thể phân hạng quân tử và tiểu nhơn trong đại gia đình Đạo được.
Về sự tu kỷ có ba phương pháp để tập rèn nhơn cách là:
Thứ nhứt: Trong khi im lặng, vắng vẻ một mình, nên tập trung những tư tưởng tốt lành, loại trừ những ý nghĩ xấu xa, hầu chế ngự cái tánh buông lung hay xúi giục những hành vi có thể làm tổn thương nhơn phẩm. Vì vậy Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Học vấn chi Đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỉ”. Cái Đạo học vấn không có điều gì khác, chỉ có tìm cái tâm đã sổ ra mà thôi.
Thứ nhì: Giữa bạn đồng Đạo cùng chung một nơi ăn, một chỗ ở, như ở giữa một tiểu gia đình, nên dầu muốn dầu không, luôn luôn phải tỏ bày trên gương mặt một nụ cười, một nét vui đặng kết tình thân hữu. Biết đâu chừng cơn vui của một người chia xẻ cho kẻ khác, sẽ lấp được một phần nào cơn sầu của chúng bạn.
Thứ ba: Trong cuộc giao tiếp bất luận với ai, phải thủ tín là điều cần thiết để bảo vệ danh giá, vì một khi mất chữ tín thì nhơn phẩm liền mất theo.
Lại nữa trong lúc đàm thoại chẳng nên nói những điều ta suy ngẫm mà phải suy ngẫm những lời ta nói.
Kết luận:
Người biết quí trọng nhơn phẩm, vốn có một tinh thần thanh khiết và cường kiện, phú quý không mê hoặc được, bần tiện chẳng thay đổi được và oai võ chẳng khuất phục được.

CÔNG BÌNH VÀ BÁC ÁI

Giữa thế kỷ XX này, tiền tài vi chủ, mạnh được yếu thua, thân con người nếu bị giam hãm trong vòng thống khổ, bởi sự bất công và vô nhơn đạo, thì kiếp sống chỉ là kiếp đoạ đầy không có gì là lạc thú.
Đời sống hạnh phúc con người phải nhờ một chánh sách Công Bình và Bác Ái, làm nền tảng cho nền luân lý thuần túy đã mất từ lâu.
1.- Công bình:
Điều gì mình không muốn người ta làm thì mình đừng làm cho người ta, ấy là lẽ công bình nữa.
Theo thế tình, hễ có vay tất phải có trả, có thọ ơn tất phải có đền ơn, ăn cho đồng chia cho đều, không so hơn tính thiệt, nói tóm là tránh những điều bất công thì không xảy ra những sự bất hòa trong gia đình cùng xã hội. Chừng ấy chốn công đường sẽ hết kẻ kiện thưa, nơi tư thất người người yên sống.
Có công bình lý tưởng và công bình sự kiện.
Lương tâm không cho ta hà khắc kẻ yếu hay xâm phạm quyền lợi của ai, mặc dầu ta là kẻ mạnh, nếu ta xử sự do lương tâm hướng dẫn, ấy là công bình lý tưởng.
Luật pháp của xã hội lập ra đặng giữ gìn tài sản và sanh mạng của mọi người và bảo vệ công lý, luật pháp ấy là công bình sự kiện.
Chẳng những về mặt Đời, có luật pháp để sửa trị những điều bất công, mà về mặt Đạo cũng có chuẩn thằng để bảo vệ công chánh và giữ niềm hòa khí giữa người đồng Đạo. Như Đạo giải thoát của nhà Phật là Đạo Bát Chánh có ấn định luật công bình căn cứ nơi Chánh Ngữ là phải nói những điều đúng chơn lý không nói những điều giả dối xảo quyệt. Chánh nghiệp là chỉ làm những việc ngay chánh công bình không làm những việc tàn bạo gian ác, và Chánh Mạng là cứ sống theo con đường công chánh, không vì lợi lộc mà bỏ nghĩa thân.
Còn luật công bình của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Tứ Đại Điều Quy, để giúp cho mỗi người được thung dung hành Đạo mà không phạm đến thanh danh quyền lợi của kẻ khác.
2.- Bác ái:
Nếu vì công bình rồi quyền lợi ai nấy giữ, cơm ai nấy ăn, nhà ai nấy ở, việc ai nấy lo, ắt hóa ra một đoàn thể tuy gần gũi nhau, mà thật sự thì cách xa nhau, bởi không ai ngó ngàng đến ai, tức là vong tha ích kỷ, là điều tối kỵ trong gia đình tôn giáo.
Vậy thì công bình phải rút trong nguồn bác ái, mới tạo hạnh phúc cho loài người được. Bác ái là tình thương yêu sâu rộng, và tình thương ấy thực hiện bằng cách bố thí và cứu trợ.
Vả chăng bố thí có nhiều cách: Hoặc chơn thật và quyết lòng trợ khốn phò nguy, hoặc kiêu hãnh muốn làm việc thiện đặng lấy tiếng; nên sự bố thí có giá trị cùng chăng là do cách bố thí. Nó có giá trị cao thượng là khi nào làm ơn không vụ lợi, và hoàn toàn giúp đỡ như anh em một nhà. Em ngã chị nâng, bậu bạn giúp đỡ nhau, người mạnh giúp kẻ yếu, cứu trợ kẻ tật nguyền, v.v... Đó là bác ái tương trợ thật sự.
Làm ơn mà đừng làm giảm giá trị người thọ ơn mới thật là bác ái.
Nên lưu tâm về chánh sách giáo hóa chúng sanh của các tôn giáo, bằng cách cấm sát sanh, chủ ý là khuyên kẻ hung hăng nên chừa tánh dữ. Bỏ dữ theo hiền, tức là gần sự thương yêu. Thương được mới hiệp được. Hiệp được mới lập thành đại đồng thiên hạ, chừng ấy mới cộng hưởng thái bình vĩnh cửu.
Kết luận:
Có công bình mà thiếu bác ái thì trật tự xã hội không bền vững, có bác ái mà thiếu công bình thì hạnh phúc toàn thể không hoàn toàn.
Vì vậy công bình và bác ái là hai đức tánh cần thiết và bổ túc nhau, để cưỡng chế tương tranh và gầy hạnh phúc.

LỄ PHÉP

Lễ phép là những quy điều đặt ra để giữ gìn hạnh đức trong sự giao tiếp với người trên và kẻ dưới, thế nào cho có vẻ hòa kính nhau.
Lễ phép cũng còn cái sở dụng để bảo tồn trật tự trong gia đình và xã hội, luôn tới cả một dân tộc một quốc gia nữa.
Nhờ có lễ mới gây thành tình cảm tốt, mới chế tài hành vi con người ta và phòng ngừa những điều rối loạn hồ đồ.
1.- Lễ:
Muốn người ta trọng mình và yêu mình, trước phải trọng người và yêu người. Người trên không có lễ, thì không lấy chi đặng khiến kẻ dưới, kẻ dưới không có lễ, thì không lấy chi đặng đãi người trên.
Người ta ai cũng có lòng muốn, mà lòng muốn người ta không có giới hạn, thì không thể không tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng. Cho nên chế lễ để chia phận nghĩa cho rõ ràng, chế ngự cái muốn, không để cùng kiệt các vật sở dụng, và cái vật sở dụng không làm kiệt cái muốn, tức là các vật sở dụng với cái lòng ham muốn phù trì lẫn nhau mà sinh trưởng.
Vả lại cái muốn thì nhiều, mà vật sở dụng thì ít nên tránh sao khỏi tranh giành, nên chế lễ để tiết chế cái muốn và bảo tồn các vật mới còn sanh hóa được, cho nên nói Lễ là nuôi là ý đó.
Hễ giữ thì chẳng luận lúc nào hay nơi nào, đều phải cẩn thận từng hành vi từng ngôn ngữ. Như làm một việc gì mà thất lễ thì không làm, nói một lời gì thất lễ thì không nói, xem những sự gì mà thấy vô lễ thì không nghe. Ấy là phép trau dồi đạo hạnh, giữ vững đạo tâm không nhiễm việc xấu, tránh xa tai họa. Vì vậy nên Ông Thái Công bảo: “Siêng cần là của báu vô giá, cẩn thận là lá bùa hộ thân” (Cần vi vô giá bửu, thận thị hộ thân phù) là vậy.
2.- Pháp:
Có lễ tức là có pháp. Pháp là khuôn viên mực thước để răn lòng sửa tánh hầu tránh điều tội lỗi. Trong nhà có lễ pháp thì lớn nhỏ phân minh, ở ngoài có lễ phép thì thượng hòa hạ mục.
Phép nước cũng căn cứ theo lễ, chế ra hình để trị loạn. Bổn phận công dân hễ biết sợ phép nước, thì hằng ngày được vui vẻ (tức là được bình an) còn dể duôi phép công (hay là khi dể quan quyền) thì hằng ngày lo lắng (sợ nay mai bị tội không chừng). Nên cổ ngữ rằng: “Cụ pháp triêu triêu lạc, khi công nhựt nhựt ưu”.
Người có pháp độ không hay nói nhiều, nên được thanh nhàn. Hay tha thứ khoan dung, thì không có kẻ oán. Tránh ganh hiền ghét ngỏ, thì không ai thù. Không tham danh chuốc lợi, thì không mất tự do.
Lễ Pháp trong cửa Đạo là Tứ Đại Điều Quy để cho Thiện Nam Tín Nữ hằng ngày gìn giữ đặng trau dồi đức hạnh.
a.- Về Lễ thì phải tuân lời dạy của bề trên, chẳng hổ chịu cho bậc thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ làm lỗi, phải ăn năn chịu thiệt. (khoản 1, điều 22, chương V Tân Luật).
Đối với trên, dưới đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung. (khoản 3).
Trước mặt sau lưng, cũng đồng một bực, đừng kỉnh trước rồi khi sau. (khoản 4).
b.- Về Pháp chớ khoe tài đừng cao ngạo quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên Đạo. Đừng nhớ cừu riêng. Chớ che lấp người hiền. (khoản 2).
Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. (khoản 3).
Đừng thấy đồng Đạo tranh đua ngồi mà xem không để lời hòa giải, đừng lấy chung làm riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung. Pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng mà trái trên dễ dưới. Đừng cậy quyền mà yểm tài người. (khoản 4).
Kết luận:
Lễ Pháp có cái công hiệu phòng ngừa nguồn loạn. Nó có cái vi diệu ngăn cấm không cho phát hiện những điều quấy khiến người cứ gần điều lành, tránh điều tội mà tự mình không hay.

LÒNG THA THỨ

Lòng tha thứ là lòng khoan dung hỉ xả tội lỗi của kẻ khác. Muốn được vậy thì phải có đức lớn, độ lượng cao, thành thật, thương yêu không coi ai là thù nghịch cả. Thoảng như gặp kẻ thất giáo vô lễ, hoặc bị đứa võ phu thị nhục, đại trượng phu không vì đó mà phẫn nộ chinh lòng.
Trái lại, còn tha thứ cho kẻ kia, thì được lợi vừa cho mình, vừa cho kẻ ấy.
1.- Lợi cho mình:
Muốn có lòng tha thứ trước hết phải sẵn có dạ yêu thương. Có biết thương yêu mới gạt bỏ được những điều tội lỗi của kẻ phạm, tất nhiên không còn toan mưu rửa hận, tránh được sự kết oán gây thù, khỏi phải trả vay nghiệp báo về mai hậu.
Nghĩ vì kẻ hạ sĩ có bụng dạ đàn em ưa sanh sự, thì người thượng sĩ có khí tượng đàn anh không đáng tranh giành hơn thiệt, hầu lưu lại mãi mối nhơn tình, đặng ngày sau còn thấy mặt nhau mới tốt. Đó là cái lợi, vừa nhịn người, vừa được an thân, lại không mất niềm giao hảo.
Chẳng những vậy thôi, hễ càng rộng tình tha thứ để bố đức thi ân, thì cái phúc của mình tự nó càng tài bồi. Nên cổ ngữ rằng: “Vạn sự tùng khoan, kỳ phúc tự hậu” thì không mất phần ai cả.
Còn cái lợi khác, nếu gặp những trường hợp chướng ngại nầy kia, người có trí nên tự xét và tìm hiểu những cái khuyết điểm trong cách xử sự của mình hầu bổ khuyết ngay, tức là có dịp để mình liệu bề chánh kỷ. Nuôi lòng lành, điều dữ tự nó tiêu tan, tha thứ lỗi người, không tha thứ lỗi mình, ấy là thượng sách.
2.- Lợi cho kẻ khác:
Kẻ làm điều tội lỗi, hoặc vì dốt nát, hoặc vì mê si, hay bởi tánh hung hăng không ai kiềm chế, hay bởi nhẹ dạ non lòng, dễ nghe lời xúi dục hành động vô ý thức, một khi kẻ ấy được tha thứ, ắt sẽ hồi tâm không tái phạm, nếu được nhiều lần tha thứ nhiều lúc ăn năn, kẻ nghịch kia sẽ trở nên người bạn tốt. Ấy là chuyển họa vi phước, cho kẻ kia nhờ và cũng là bổn phận kẻ sáng suốt, phải hạ mình chiều chuộng khoan dung, đặng dẫn lối người ám muội trên đường chánh kỷ.
Vả chăng Đức Chí Tôn đã ban hành cho mỗi người một điểm linh quang hằng sáng suốt, nhưng vì ngoại cảm xấu xa che lấp nên phải lu mờ, nếu được ngoại cảm tốt lành xâm nhập phá tan màn hắc ám, chuyển hư thành nên, thì dầu cho tiểu nhơn cũng trở thành quân tử.
Kết luận:
Ở trong cảnh giới hổn tạp phong ba nầy, mà muốn lập thân không phải dễ. Vậy cái khuôn phép xử thế phải rộng rãi khoan dung, dầu cho bị đau khổ tâm hồn, cũng xem như đi trên con đường bằng phẳng mới yên ổn được. Không đau khổ làm sao biết thương yêu và tìm ra bản ngã? Bởi vậy cho nên phải hằng nhớ rằng, chi chi cũng phải sẵn có niềm hòa khí, nét yêu thương mới có lòng tha thứ. Thiếu tình thương yêu, ắt mất dạ khoan hồng, rồi thế nào “Dĩ đức phục nhơn” cho được?.

MÊ TÍN DỊ ĐOAN

Giữa thời đại văn minh vật chất nầy, tiền tài lợi lộc hay làm cho nhơn tâm nảy sanh những mưu này kế nọ, để cho người gạt người, cho kẻ khôn lường kẻ dại, tưởng không phải là việc lạ. Nhứt là về mặt tín ngưỡng, có những khía cạnh rất dễ khiến kẻ mê tâm muội tánh, dám hi sinh làm dụng cụ cho người khác sử dụng. Và một khi thâm tâm nhiễm về đường tà, thì thành mê tín dị đoan nan giải.
Nguyên nhân: Dân tộc nào cũng vậy, hễ còn xa ảnh hưởng văn minh khoa học, và chưa được đào luyện trong tinh thần khoa học thì không khỏi lầm vào lối mê tín dị đoan.
Mê tín là quá tin tưởng theo những điều gì một cách mù quáng, trước khi tìm hiểu cho ra lẽ phải trái.
Dị đoan là tin chắc tưởng thiệt những điều quá kỳ dị không thể tin được.
Hậu quả: Bị lợi dụng, kẻ mê tín không khỏi mất tiền mất của, thậm chí có thể lụy đến thân là khác.
Như gieo sự bất yên trong số người mê tín, có nhà lo đi xem bói, coi đồng coi cốt, có người nhờ thầy pháp đánh bùa đánh phép chữa bịnh, đó là hành động vô ý thức và thiếu sáng suốt để tiền mất tật còn.
Lâu ngày căn bịnh trầm kha (nếu nói về bịnh hoạn) rốt cuộc phải nhờ lương y điều trị.
Còn nói về tội tình, thay vì ăn năn chừa cải, lại cậy kẻ khác tụng kinh cầu phước, tội kia còn đó, kinh nọ làm gì cho tiêu, nghiệp chướng vẫn còn là nghiệp chướng.
Vì yếu tánh và thất học, kẻ tin dị đoan vừa thấy một viên đá to tướng liền thắp hương khấn vái cầu xin này nọ và cho đó là Đá Thần, có đủ oai linh cầm quyền sinh sát. Người đi biển rủi gặp lượn sóng khổng lồ thì cho là Sóng Thần rồi cũng thắp nhang đèn khấn vái cho biển lặng sóng êm, thay vì lánh nạn nơi khuất gió.
Có nhiều nơi ở gần biển, một khi gặp Cá Ông mắc cạn, chết khô trên bãi, thì dân cư nội vùng xúm lại để tang, lập miếu phụng thờ và cầu an cho bá tánh. Càng kể càng thêm nhiều điều hoang đàng vô lối.
Thử nghiệm kỹ hành vi và tin tưởng như thế đem lại kết quả gì nếu chẳng phải là kết quả làm cho trí óc tán loạn, tinh thần thấp kém thì muôn việc đều hư hỏng.
Phương cứu chữa: Hễ có Mê thì có Ngộ
Mê là đem tâm đeo đuổi theo những cái ảo ảnh vô thường, thoạt có thoạt không, không dựa vào đâu để bảo đảm kết quả chắc chắn theo nguyện vọng của kẻ hữu cầu.
Nếu tinh ý đem tâm quy về cái lẽ chân thật duy nhất không bao giờ mất và dùng lý trí để cứu xét phải trái chánh tà. Phải thì theo, trái thì tránh, chánh thì làm, tà thì hủy. Dốt thì học hỏi nơi người hữu học, ám muội thì noi theo gương kẻ sáng suốt mà đồ theo, chẳng nên nghe lời huyễn hoặc, chẳng nên làm chuyện dị đoan luôn luôn thận trọng mọi sự và mọi dịp.
Ấy là chuyển Mê khải Ngộ là vậy.

NGHĨA TƯƠNG TRỢ

Ở cõi phàm này không ai sống cô độc mà hưởng đầy đủ nhu cầu cho được. Không ai có thể tự hào mình làm được trăm việc, tự cung cấp mọi điều cho mình mà không nhờ đến xã hội.
Thử xem một bằng chứng rất minh xác trước mắt chúng ta hằng thấy là một người làm ruộng có lúa ăn mà không có nhà ở nếu không có thợ mộc giúp tay. Còn thợ mộc phải cần thợ rèn mới có dụng cụ hành nghề v.v... Người này nhờ sức người kia mới đủ phương tiện sanh sống, sự liên đới quan hệ giữa các ngành nghề nghiệp trên đây là chỉ cho ta thấy sự giúp đỡ xoay vần về tài lực giữa người trong xã hội có ích là dường nào.
Thiết nghĩ xã hội nào cũng có người bất túc kẻ hữu dư, có người lành mạnh, kẻ tật nguyền, thì tương trợ là điều cần thiết để tạo phúc cho nhau trong khoảng đời thống khổ của mỗi người.
Có nhiều cách tương trợ hoặc bằng lời nói, việc làm hoặc bằng tiền bạc của cải. Ai cũng có thể giúp kẻ khác nếu không với hằng sản thì với hằng tâm. Chớ đừng vị kỷ vong tha mà phải bị xã hội ghét bỏ. Một khi mất đi sự tương trợ của xã hội, thì dầu tung tiền muôn bạc ức để đổi lấy bất cứ thứ gì cũng không được, thì sự giàu sang khi đó sẽ trở nên vô ích.
Nghĩ vì đời thường khổ lại thường gặp nhiều cảnh khổ, như bị hoả hoạn, thủy tai, hay thiên tai địa ách, nên xã hội mới lập ra nhiều tổ chức có tánh cách tương trợ như tương tế, chẩn bần, vừa giúp ích cho cá nhân, vừa giúp lợi cho nước nhà. Bởi đó mới có câu cách ngôn “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Nói riêng về phần cá nhân đối với cá nhân, có lời tục rằng: “Khó giúp nhau mới thảo, giàu tư trợ ai màng”. Câu này có ý nhắn nhủ với ai là khách trần tục chẳng nên quên lập nền nhân nghĩa bằng cách tương trợ tương thân và để tình nhân nghĩa cho đúng chỗ, đúng thì, mới thật là có nghĩa tương trợ.
Thêm một mẫu chuyện như dưới đây của một người mù với một người bại, hai người cùng giúp sức nhau để đi hành khất bằng cách người mù không thấy đường thì nhờ cặp mắt sáng của người bại dẫn lối, còn người bại không đi được thì nhờ cặp chân của người mù đặng lần đường. Chuyện này tả cảnh tương trợ giữa người đồng khổ không cảnh nào thiết thực bằng, huống hồ giữa một người khổ với một người ít khổ lại không có sự hộ trì nhau sao?
Sự tương trợ trong cửa Đạo:
Trong cửa Đạo là nơi giải khổ, thì sự tương trợ có nhiều ý nghĩa thâm viễn hơn, mà mỗi người cần lưu tâm, để làm nét chuẩn thằng trên con đường hành Đạo. Thiên về mặt tinh thần người trong bổn Đạo phải trợ giúp lẫn nhau bằng cách giáo hóa trên con đường hạnh đức. Phô bày phương pháp phá mê hầu dìu độ nhau vào nẻo quang minh chánh đại. Ngó về đường vật chất thì Chương Thế Luật trong Tân Luật đã ấn định rành rành chánh sách tương trợ để đi đến chỗ hiệp sức hòa tâm, rút trong nguồn cộng ái. Vả chăng, nên nhớ rằng sự bất tín bất hòa là mầm chia rẽ, là mối nguy nan trong vòng thế sự cũng như trong phạm vi tôn giáo, nếu thiếu tương trợ tương thân thì họa diệt vong hậu kề.
Tổng luận:
Trên đời không có việc chi là khó, mà không làm được là bởi lòng mình không chuyên chú, ân cần đó thôi. Vậy thì thà là tạo nhân đáp nghĩa với ngàn người, chớ đừng kết oán với một người, mà làm hư hỏng một kiếp sanh rất uổng, sống có tương trợ thì sức lực được mạnh mẽ để phấn đấu, tinh thần được tráng kiện để tăng tiến trên đường giải khổ, mới thấy cái thú vị trong cái sống giữa đời phiền lụy khổ não này.

HI SINH CHO MỘT LÝ TƯỞNG

Hi sinh có nghĩa là quên cả sự sống, không kể tánh mạng mình để mưu cầu ích lợi chung cho nhiều người.
Lý tưởng là ước vọng cao xa của một cá nhân mà cá nhân ấy cố đạt cho kỳ được.
Hi sinh cho một lý tưởng tức là quên mình hay là hiến cả thân mình để làm một việc gì theo cái ý nghiệm mà mình cho là cao thượng, là tốt đẹp để tô điểm cá nhân mình và cùng phụng sự cho kẻ khác.
Cho hay kiếp sống con người không phải để ăn uống, nằm ngồi, đi đứng, hầu kéo dài ngày tháng cho tới chết là hết. Như vậy, thì kiếp sống không có nghĩa và không bổ ích vào đâu cả.
Trái lại, sống với một mục đích, một chủ nghĩa hay một lý tưởng gì ngoài mình và cao hơn mình, mới thấy cái lạc thú để sống. Cố gắng theo đuổi cái mục đích ấy và để hết năng lực cùng tinh thần vào đó, cho tới mức thành công sẽ thấy dầu hi sinh đến đâu cũng không tiếc và vui lòng hi sinh là khác.
Do đó mới có trổ mặt những anh hùng liệt nữ, những quân tử hiền tài, nơi nầy nơi nọ mà đời hằng ca tụng sùng bái.
Như Đức Phật Thích Ca có một lý tưởng cao siêu là thoát khổ. Ngài hi sinh cả quyền cao tước trọng, phú quý vinh huê, luôn cả gia đình, rồi hãm mình trong vòng khổ cực, tìm cho rõ nguyên nhân sự khổ và tầm phương diệt khổ. Ngài đắc pháp là nhờ theo đuổi cho đến kỳ cùng cái lý tưởng duy nhứt ấy.
Như Đức Khổng Phu Tử vì theo đuổi cái lý tưởng sửa đời tệ, trị đời loạn, không hề thối bước trước một trở lực nào, mặc dầu ra làm quan giúp nước Lỗ, kế qua Tề, sang nước Vệ, tới nước Tống, nước Trần, nước Tấn, nước Sở rồi trở về nước Lỗ. Không nước nào dung nạp Ngài cho được lâu dài. Mãi đến tuổi về hưu, Ngài còn tiếp tục tạo dựng cho xong một nền luân lý thuần túy cho dân tộc Trung Hoa, thêm viết một bộ sách Xuân Thu để bày tỏ cái Đạo của Ngài về đường chánh trị.
Như Đức Jésus Christ có một lý tưởng chuộc tội cho loài người, vì nhận thấy thời bấy giờ loài người đang đắm đuối trong vòng tội lỗi, Ngài chịu đổ máu trên Thập Tự Giá và đạt thành mục đích.
Như Hai Bà Trưng trong xứ ta, theo đuổi một lý tưởng phải trả thù chồng, bằng cách diệt trừ kẻ tàn bạo và đuổi quân xâm lăng ra khỏi nước. Hai Bà không màng sức yếu quần thoa xông pha trận mạc cho đến lúc thành công mới ngừng.
Sanh ra ở cõi trần này nếu ta chịu khó kiếm hiểu vì sao ta sống, sống để làm gì, ắt ta thấy con người là người của xã hội, và đã là người của xã hội, thì không khỏi có một niềm ưu tư phục vụ cho xã hội. Chừng ấy ta sẽ nẩy nở những tư tưởng cao xa, những quan niệm tốt lành, để tạo được một đời sống vẻ vang cho mình, và hữu ích cho xã hội.
Đứng về mặt tôn giáo mà nói, phải có đại nguyện mới mong thành chánh quả. Đại nguyện là hi sinh, chánh quả là lý tưởng.
Như hiện thời trong cửa Đại Đạo mỗi người trong chúng ta đều lãnh một sứ mạng Thiêng Liêng dìu chúng sanh vào đường đạo đức. Trước hết, chúng ta cần ly gia cắt ái, xả phú cầu bần, rồi kế đó phải gắng công trau dồi hạnh đức cho tới chỗ chí thiện, mới xứng đáng một người truyền giáo.
Sách Đại Học rằng: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”.
Chí thiện là lý tưởng, còn những phương châm đạt thành lý tưởng như trên vừa kể là hi sinh vậy.
Tổng luận:
Đại phàm trong muôn việc có khó mới có nên, thậm chí muốn tới nơi thành tựu của một đại sự, dầu phải phủi hết cái gì của mình mà mình cho là quí báu trọng hậu cũng sẵn sàng hưu hủy. Muốn thâu cái lợi lớn, phải thí cái lợi nhỏ là lẽ hằng xưa nay vậy.

TINH THẦN ĐOÀN KẾT

Đoàn kết là hiệp tại nhiều người thành nhóm, thành đoàn cùng theo một chí hướng để thực hiện một mục đích có ích chung hoặc phụng sự cho một chủ nghĩa cao thượng ngõ hầu thâu thập kết quả chắc chắn và tốt đẹp. Trái lại, riêng lẻ một người không thể thành công được.
Có đoàn kết mới có sự liên lạc mật thiết, mới hiểu nhau, mến nhau rồi sẽ giúp nhau, từ việc nhỏ đến việc lớn không bỏ qua một việc nào.
Việc nhỏ như một người lăn không nổi một cây súc, mà năm bảy người phụ lực vào thì lăn rất dễ.
Việc lớn như muốn lấp đất đê ngăn nước, một người làm không xuể, đông người làm chẳng mấy hồi.
Việc lớn hơn nữa như giữ gìn biên cương, bảo vệ quần chúng, có đoàn kết với mọi người mới chung lưng đâu cật, đồng lòng quyết thắng thì quân địch không dám đến hay đến rồi phải thất bại.
Những nghiệp đoàn trong các ngành kinh tế hay chính trị, hoặc binh bị là những hình thức đoàn kết hiệu nghiệm, để bênh vực quyền lợi và giữ vững tinh thần phấn đấu cho ngành mình, mà không mất tình hữu nghị giữa người trong ngành.
Lời ví rằng: “Chia rẻ thì chết, đoàn kết thì sống”. Số đông là số mạnh, đã đông lại thêm đồng một chí hướng thì làm việc gì cũng thành công. Hội nghị Diên Hồng là một đoàn kết lịch sử của Việt Nam vậy.
Sự đoàn kết của những người trong một nhóm, là một việc hay, còn đoàn kết nhóm này với nhóm khác, để tương trợ lẫn nhau trên đường sanh sống, là một việc càng hay hơn thêm cần thiết là khác.
Một xã hội cho đặng sống điều hòa và bình hành thì sĩ, nông, công, thương, phải phù trì nhau, mới cung cấp đầy đủ nhu cầu và tiện nghi được.
Lời Thầy Mạnh Tử về sự đoàn kết rất hữu lý và thâm thúy như vầy: “Không có người Quân Tử (là các quan) thì chẳng ai ra chánh giáo để cai trị dân quê, không có dân quê thì chẳng ai cày cấy lấy lương bổng để cung cấp cho người Quân tử (Vô quân tử mạc trị dã nhân, vô dã nhân mạc dưỡng Quân tử).
Từ cổ cập kim, ở thế hệ nào cũng vậy, đời sống có đoàn kết mới có tiến hóa. Thế hệ này đã qua, để lại cái di sản đoàn kết lại cho thế hệ khác, và cứ lưu truyền từ đời này sang đời nọ, cái di sản ấy chỉ tăng thêm phần tốt đẹp mà thôi. Thảng như di sản đó bị phân chia ra từng mảnh múng, bởi một lẽ gì chẳng hạn, thì vì sự sanh tồn của xã hội ta phải kíp ráp lại cho lành, chuyển hư thành nên, mới khỏi đắc tội với thế hệ sau cũng như với thế hệ trước.
Tổng luận:
Sự đoàn kết giúp cho người ít tổn sức mà lập được đại công. Trái lại thì phí nhiều sức mà thành công dã tràng.
Ở trong cửa Đạo, sự đoàn kết rất hữu ích về phần vật chất cũng như tinh thần. Về vật chất có đoàn kết mới giữ trọn nét yêu thương, để trợ giúp nhau khi hữu sự. Về tinh thần có đoàn kết, mới tận tâm dìu dắt nhau trên đường hành Đạo, mới có đủ năng lực truyền bá chơn truyền cứu nhân độ thế.

XÃ HỘI

Ở thế gian này ngoại trừ những vật vô tri, các vật hữu tri hữu giác đều sống có gia đình có tổ chức có nhóm, có đoàn, mới tiến hóa và tồn tại tới ngày nay và sẽ còn tiếp diễn.
Loài người hồi đời thượng cổ chỉ sống chật hẹp trong tiểu gia đình. Lần hồi vì cuộc mưu sanh cấp thiết, mới nhìn nhau trong kẻ đồng tông và mở rộng đường tiếp tế, bằng cách trao công đổi của. Nhưng vì nhu cầu thân xác, cứ đòi hỏi thêm tiện nghi, mà một nhóm người không thể thực hành cho nên việc. Rút kinh nghiệm trong sự cộng tác đắc lợi của người đồng tông, nhiều tông và nhiều tiểu gia đình khác mới hội hợp lại làm một đại gia đình hay một xã hội. Mục đích là tương trợ khi hữu cầu.
Với mục đích này, xã hội có trách nhiệm nâng cao đời sống của mỗi người, bằng cách bổ túc những nơi nào còn khuyết điểm. Chẵng những vậy thôi còn tìm phương cải thiện đời sống cho tận mỹ hơn, về phần vật thể cũng như về phần tinh thần.
Về phần vật thể thì trợ khổn phò nguy. Lập dưỡng đường, dựng cô nhi viện, tạo dưỡng lão đường, v.v... Về phần tinh thần thì lập trường học, xây nền giáo huấn bách khoa, nâng cao dân trí để phấn đấu cho xã hội được dễ dàng phát triển trên mọi phương diện.
Vả lại, xã hội là nơi quy tụ ý kiến của các bậc nhân tài, là nơi đấu trí của các nhà thông thái, tiện thị là nơi sản xuất những cái hay cái tốt để tô điểm đời sống còn của toàn thể.
Vậy thì công trạng của xã hội đời này là để bảo vệ cái di sản của xã hội đời trước, cũng như sẽ kế truyền cho xã hội đời sau. Hay nói một cách khác, có xã hội mới có văn minh tăng tiến. Cái văn minh đời này đã thành hình từ đời trước, rồi đời này cải thiện cho đời sau thừa hưởng, đời sau còn cải thiện thêm thì nền văn minh (vật chất lẫn tinh thần) không khi nào sút kém.
Thiết tưởng, mỗi một thế hệ đều có một trình độ tiến hóa riêng: nên xã hội của thế hệ này có bổn phận vừa giữ gìn cho nguyên vẹn cái văn minh của xã hội của thế hệ dĩ vãng, vừa nâng cao nền văn minh ấy cho hợp với dân sanh, dân trí đương thời, rồi xã hội của thế hệ tương lai, cũng sẽ do theo nguyên tắc kế truyền mà để bước.
Tổng luận:
Không có xã hội, nhơn loại sẽ yếu thế, và mất thăng bằng trong đời sống của mỗi người. Song le những năng lực của xã hội ở thế kỷ XX này đã đến mức dõng mãnh phi thường, thành thử gây trở lại một nỗi lo âu cho thiên hạ. Nó đoạt được một phần cơ mầu nhiệm của Tạo Hóa, là làm chủ nguyên tử năng, điều khiển khinh khí lực, và còn lên viếng cả cung trăng. Nhưng ngặt nỗi, hiện nay khoa học phần nhiều lại chỉ mạnh tiến về cách sát hại sanh linh, mà ít quan tâm đến bảo toàn sự sống.
Duy những đặc điểm khác của nguyên tử năng hay của khinh khí lực, để tạo hạnh phúc cho nhơn sanh hãy còn trong vòng bí mật. Phải chăng vì loài người chưa quay hẳn về đường đạo đức nghĩa nhân nên tìm chưa ra điểm ấy.

LIÊN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI

Một số đông người hợp lại để theo đuổi một chương trình hành động, mưu sinh cho toàn thể, gọi là đoàn hay nhóm hay câu lạc bộ. Nhiều đoàn hợp lại, theo đuổi một chương trình rộng rãi hơn, cũng thiên về sự ích lợi chung gọi là xã hội. Mỗi cá nhân là một phần tử của xã hội. Vậy thì xã hội hình thành bởi cá nhân, và được nâng đỡ, duy trì tồn tại cũng do công cán của cá nhân.
Vả lại sự đòi hỏi của đời sống rất phức tạp, nên phải nhiều tay, nhiều trí, nhiều của... bồi đắp nhau mới làm cho thỏa mãn các nhu cầu được.
Thử xem từ thế hệ này đến thế hệ khác, có ai không ước ao ăn ở cho được an ninh, cho có nghĩa tình giữa người đồng xóm, đồng làng, đồng xứ sở? Nào là quyền lợi riêng tư, nào là tự do cá nhân, nào là tiện nghi ăn ở, ấy là những điều kiện muốn thực hành cho hoàn toàn, phải trải qua biết bao việc nhỏ nhặt phiền phức liên đới buộc ràng, từ hạ từng cơ sở đến thượng từng kiến thiết. Nếu không có xã hội đảm đương trọng trách điều khiển mọi hành tàng, và giữ gìn kỷ cương thì sự sống còn của cá nhân không có nền tảng vững chắc, nếu nó không sụp đổ. Đồng thời nhiệm vụ cá nhân đối với xã hội không phải không quan hệ, vì mỗi người tùy khả năng phải tận tâm vùa giúp cho xã hội làm tròn phận sự. Vì đó, sự cố gắng của cá nhân là kết quả thành công của xã hội. Thoảng như rủi có điều gì lầm lỡ của vài phần tử xã hội, thì toàn thể chung chịu trách nhiệm. Nếu không chỉnh đốn cải thiện cấp kỳ, thì cái tệ hại này có ảnh hưởng tới thế hệ tương lai hoặc tới nhiều thế kỷ khác.
Theo luật thiên nhiên sanh hóa của Càn Khôn Vũ Trụ vạn vật phải có biến mới có tiến.
Đây nói về nhơn loại, một khi ngộ biến thì xã hội phải tầm phương giải nạn, và phòng ngừa tai nạn tái lại. Đó là cơ hội cho cá nhân vùa giúp xã hội, chống chỏi với mọi trở lực trên con đường tiến hóa, và một lần thành công là một lần phát triển. Song le muốn đi đến thành công, có khi gặp trường hợp phải chịu nhiều thất bại. Nếu kiên tâm trì chí, và khéo xoay trở đối chiếu, thì có thể chuyển hư thành nên. Sự thất bại sẽ lui bước, nhường chỗ cho sự thành công, là phần thưởng cuối cùng.
Tuy thất bại vẫn là bài học để tiến hóa, nhưng nên nhìn nó là cây thước để đo trình độ dân sanh, và là sự kiện để giúp xã hội canh tân theo kịp thời gian và hợp dân trí.
Tổng luận:
Cá nhân là phần tử tạo dựng xã hội, xã hội là hình ảnh năng lực của các phần tử.
Phần tử tốt thì tạo xã hội tốt, phần tử xấu thì xã hội khó tiến hóa.
Vì vậy mà người ta nhìn xã hội mà đoán quốc vận.

TÔN TRỌNG CỔ TÍCH, THẮNG CẢNH
DANH LAM VÀ TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT

Cổ tích là những vật ghi dấu những hành tàng từ ngàn xưa của các bậc tiền bối và tiêu biểu cho trình độ văn minh của thế hệ đã qua mà người đời nay nhìn vào phải sanh lòng hoài cổ.
Thắng cảnh là những bức tranh thiên nhiên kết thành bởi đỉnh núi đầu gành, non xanh nước biếc, hạc nội mây ngàn, có khí vị quyến rũ tao nhơn mặc khách làm nơi giải trí, xui khiến kẻ lánh chốn phồn hoa làm nơi tịnh dưỡng tinh thần.
Danh lam là những chùa những tháp từ nhiều đời chịu đựng mưa sa nắng táp, lưu lại những dấu tích ngưỡng mộ đạo đức của loài người.
Tác phẩm nghệ thuật và tác phẩm văn chương là những tuyệt xảo sáng tác và tinh hoa trí thức chẳng luận cổ kim có tánh cách dọn đường cho văn minh tấn bộ.
Trên đây là những vật vô tri, tuy không biết nói, không cử động, mà lại có cái vi diệu khêu gợi sự nhớ nhung, quý mến, cũng như sự tôn sùng, ngưỡng mộ, những chuyện xưa tích cũ, để cho đời hậu tấn làm tài liệu cải thiện đời sống cho tận mỹ hơn.
Những vật ấy không thuộc quyền sở hữu của một người nào, mà là của toàn dân toàn xứ. Song le có người không nhận thức cái vẻ đẹp thiên nhiên thắng cảnh, cái giá trị cao cả cổ tích, rồi xem thường và phá phách. Hành tàng như thế là đi ngược vòng học hỏi, chỉ biết thoái chứ không biết tiến. Vì đó mới có những Hội Khảo Cổ, khai thác đất đai tìm cổ tích, những tổ chức mạo hiểm vào hang sâu vực thẳm, lặn bể trèo non, tầm vật lạ thiên nhiên, hầu bổ túc và khuyếch trương khoa học.
Như vậy là người ta biết tôn trọng cổ tích, và cố giữ gìn cho nguyên vẹn, hầu lưu truyền những cái hay, cái khéo luôn cả cái vụng, cái sơ, của đời dĩ vãng cho đời hậu lai lấy cái đó làm kinh nghiệm, hầu phát huy tư tưởng và tô điểm hành tàng thì không phải là điều vô ích.
Nếu chép cho hết những cổ tích, và tác phẩm nghệ thuật từ hồi nguyên thủy đến buổi hiện kim, thì không biết bao nhiêu sách cho đủ. Có điều ta nhận kiếm không sai là trên thế giới này loài người cứ tái diễn những tấn tuồng bất vi thiện, những trò tàn phá đặng rồi kiến thiết. Vì thế mà văn minh vật chất được phát triển còn văn minh tinh thần lại sút kém.
Như vua Neron (Ý Đại Lợi) vì hà khắc người Công giáo làm cho thành La Mã phải xiêu đổ. Tần Thủy Hoàng (Trung Hoa) cho đặng ngăn giặc xây Vạn Lý Trường Thành phải tiêu hao về số sanh mạng. Các vua Ai Cập xây Kim Tự Tháp, chất đá thành non làm nơi cất xác, đó là gương hùng cường.
Thành Jérusalem, thành La Mecque (Trung Đông), sông Hằng Hà (Ấn Độ), xứ Tây Tạng (Trung Hoa) là những nơi có địa điểm tích trữ những sự kiện khi thạnh khi suy của các tôn giáo.
Hiện giờ sau hai trận đại chiến Âu châu và thế giới hay nói một cách khác, sau hai cuộc phá hoại toàn cầu nhân loại lo tái tạo. Đồng thời khoa học đang mạnh tiến và càng mạnh tiến càng đe doạ hòa bình, khiến cho nền luân lý thuần túy khó được phục hưng, thiên hạ cũng nên xem cổ tích và chuyện đã qua rồi suy gẫm cái sở hành nào để chuyển họa vi phước.
Tổng luận:
Vô cổ bất thành kim, và yểm cựu nghinh tân không phải là thượng sách trên con đường học vấn và tiến hóa.

TINH THẦN BẢO THỦ VÀ CHÍ TIẾN THỦ

Ở đời có hai con đường để cải thiện xã hội cho mỗi ngày mỗi thêm tiện nghi và tốt đẹp hơn. Ấy là con đường bảo thủ và con đường tiến thủ.
Vả chăng mỗi con đường đều có cái hay và cái dở của nó, chớ chẳng phải trọn toàn, song lẽ tùy sở thích và quan niệm cá nhân, có người xu hướng theo con đường bảo thủ, còn người khác lại theo chiều tiến thủ.
Bảo thủ:
Đành rằng xã hội nào cũng cần tiến hóa về phần vật chất cũng như tinh thần, nhưng có người với ý chí thủ cựu quyết giữ những thành kiến xưa, những phong tục cũ mà thôi. Vì cho rằng đã được xã hội nạp dụng những thành kiến ấy không phải dở, những phong tục ấy không phải hủ lậu. Nếu sửa cải, sợ e dở hơn hoặc hỏng đi chăng. Những người đó còn công kích các sự cải tiến canh tân và chỉ thích những gì hợp với trí thức xưa và cho đó là bất khả di dịch. Họ luyến tiếc cái dĩ vãng và ưa sống trong cảnh an bài, không cần bày biện nầy nọ, cho thêm rộn lại càng lo ngại sẽ thất bại là khác.
Với độ lượng hẹp hòi không có tính cách tiến triển, tinh thần bảo thủ là một trở lực rất lớn trên con đường tiến hóa của xã hội. Nếu không biến cải và cứ ở trong tình trạng đứng chựng hay thụt lùi, thì xã hội chỉ làm nô lệ cho những tư tưởng không có khả năng phát triển.
Tiến thủ:
Một số người khác ngó về tương lai xã hội và thích thay cũ đổi mới đặng cải tiến mà không vững chãi, họ cũng tin rằng sẽ thành công. Nếu thất bại họ vẫn theo đuổi chí hướng đã định cho đến đạt kỳ sở vọng mới thôi.
Hai chữ tiến thủ hàm súc cái ý nghĩa cách mạng và quyết tâm phá đổ cái gì mà người ta cho là dở, là không hạp thời. Nếu trải qua những trận lưu huyết dữ dội, người ta cũng không sờn lòng.
Chí tiến thủ được cái lợi lớn là thúc đẩy văn minh mau tiến hóa.
Sách rằng: “Nhựt tân, nhựt nhựt tân, hựu nhựt tân”, ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày mới. Câu nầy khuyến khích cứ mỗi ngày mỗi mở mang trí hóa để đi đến cái hay hơn ngày đã qua và tìm thêm cái hay cho ngày sẽ tới.
Tổng luận:
Nếu dung hòa tinh thần bảo thủ và chí tiến thủ hay nói rõ hơn, nếu hai đức tánh này bổ túc cho nhau thì xã hội sẽ tiến hóa trong vòng trật tự và điều hòa.
Trong cửa Đại Đạo, chúng ta có Tân Luật tượng trưng tinh thần tiến thủ để cải thiện đời sống nhơn sanh trong nề nếp thương yêu và công bình hơn. Còn Cựu Luật của Tam Giáo và Ngũ Chi là bảo thủ để giúp nhơn sanh thoát nơi đỡ khổ, vừa thủ cựu vừa canh tân thì đứng giữa thâu lợi cả đôi bên ấy là doản chấp quyết trung, không còn chi hơn nữa.

BỔN PHẬN ĐỐI VỚI CẦM THÚ

Cầm thú là những giống không biết phải trái hư nên, không biết thiện ác là gì. Tuy vậy chúng vẫn biết đau đớn, biết ham sống sợ chết, biết thương yêu đồng loại. Chúng khác với loài người là không có trí khôn và vì đó nên chịu phận thấp hèn để cho loài người tùy ý sử dụng.
Song le chẳng phải vì có quyền làm chủ cầm thú mà loài người không có bổn phận đối với chúng.
Bổn phận loài người:
Cầm thú giúp Đời về nhiều phương diện rất quan trọng như sau này:
1. Trải thân làm thức ăn hằng bữa để nuôi mạng người.
2. Làm công chuyện nặng nề cho người đỡ nhọc trong cuộc nông tang, chuyển vận.
3. Phục vụ khoa học bằng cách để cho các nhà khoa học nghiên cứu cái sở dụng của chúng nó trong những tiện nghi về vật chất, nhứt là về mặt y khoa.
Đối với công trạng như trên, người có bổn phận phải nuôi chúng nó cho tử tế, cho ăn no đủ, cho ở chỗ có vệ sinh. Gặp khi bệnh hoạn có thuốc men điều trị.
Có người không xét công cho chúng nó nhờ, lại dùng chánh sách bạo tàn làm cho chúng nó đau khổ. Chẳng hạn như có kẻ đánh đập con bò, ngựa trong lúc nó làm việc cho đến nỗi nó quị xuống đất mà chịu đau chớ không biết than. Số phận của nó đã đành như thế, duy đáng trách là kẻ ấy lại quên rằng nó đang giúp mình trong kế sanh nhai.
Nếu hiểu rằng thú vật đã mang cái số phận cùng căn mạt kiếp làm nô lệ cho loài người thì hiếp đáp chúng nó chẳng khác nào kẻ trí đấu sức với vật vô tri tức là hạ mình ngang hàng với cầm thú thì còn gì là nhơn phẩm.
Bổn phận người Đạo:
Trong cửa Đạo là cửa rất kỵ những hành động bạo ác, những tính nết hung hăng thì chư thiện tín có bổn phận xem loài cầm thú như kẻ bạn bị xếp vào hàng xấu số hơn mình, không đáng cho chúng ta hành hạ hủy hoại. Trừ khi gặp trường hợp tự vệ phải trị thú dữ, người Đạo nên chú ý về sự sát sanh là điều răn đứng đầu trong ngũ giới cấm vì nó quan hệ hơn cả. Theo luật luân hồi quả báo, vạn vật hữu sanh đều phải trải qua nhiều kiếp mới mong đến kiếp chót là kiếp hoàn toàn thiện mỹ. Trong khoảng thời gian ấy một kiếp thú có thể là hậu quả của một kiếp người bị đoạ cũng như kiếp người có thể là hậu quả của một kiếp thú mãn đoạ. Vậy thì chung quanh chúng ta nói theo lẽ Đạo dầu người hay dầu thú, vì tiền kiếp mà nên hình, cả thảy đều là anh em.
Tổng luận:
Trong những xứ văn minh hiện đại người ta đã tổ chức nhiều hội thảo bảo vệ loài cầm thú cốt ý kêu gọi lòng nhơn từ của loài người cho chúng nó bớt bị hành hạ vô lối.
Kinh Sám Hối cũng có khuyến thiện như sau này mong dành một phần nào hạnh phúc cho chúng nó trong lúc sống còn ở trên cõi trần:
Lòng Trời Đất thương đều muôn vật,
Đức háo sanh Tiên, Phật một màu.
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loại nào chẳng linh.
Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
Bền công Kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá,
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng biết chừng nào an.

ĐỨC SANH CỦA TẠO HÓA

Trong Càn Khôn Vũ Trụ có Âm Dương nhị khí cùng điều hòa với nhau mà sanh ra vạn vật. Đứng đầu trong vạn vật loài người là phần tinh ba có tính thông minh hơn cả để suy nghiệm các việc của Trời Đất. Vậy thì ai là kẻ quán triệt được cái đức sanh của Đấng Tạo Hóa, sẽ cảm thấy cái kiếp sống ở đời chẳng phải là vô vị, trái lại có nhiều lý thú, chỉ người thượng trí cao minh mới biết thưởng thức để trau dồi và tô điểm bản thân cho hạp với đạo lý.
Vả chăng bao nhiêu khổ trần, đã làm sầu khách tục, chẳng phải do sự sống sanh ra, mà do tư tâm tư dục tạo thành. Như biết sống thuận theo lẽ tự nhiên thì không còn những quan niệm hoạ phước kiềm thúc, còn biết nhận định sự sanh là đức lớn và cũng là mục đích của Tạo hóa, thì việc sống chết không còn là vấn đề nghị luận.
Sách rằng “Thiên địa chi đại đức viết sanh” nghĩa là cái đức lớn của Trời Đất là sanh hóa ra mãi.
Nhưng cần quan tâm rằng đức háo sanh là một việc, còn lẽ công bình Thiêng Liêng là một việc khác. Cho nên chẳng vì hưởng đặng kiếp sanh của Tạo Hóa ban cho, rồi kẻ phàm phu tục tử lại đem vùi nó trong chốn tội tình, thì không khỏi bị Thiên Điều hành khiển. Duy kẻ đạt được cái lý nhiệm mầu của Trời Đất mới vui sống cái đời đáng sống.
Thiết tưởng Đấng Tạo Hóa lúc nào cũng hộ trì cho sự sống được mạnh mẽ tươi tỉnh, thì đời người từ thanh mi chí bạch phát, ví như bốn mùa từ xuân hạ thu đông, mỗi mùa đều có cái vẻ đẹp của nó. Nếu không lưu luyến trong vòng ngũ trược, thì cái thú vị phong phú của đời người, lúc nào cũng xuất hiện nơi thâm tâm để tự mình tịnh tiến.
Có điều không tránh khỏi, là thời đại hay di chuyển, hoàn cảnh sinh hoạt hay đổi xây, thì người khôn không đi ngược trào lưu tiến hóa. Nhưng có khi ẩn hiện, lúc xuất lúc xử, là vì lẽ tùy thời đó thôi. Và dẫu ẩn dẫu hiện, người ta không bao giờ mất cái lạc thú trong lòng.
Những thi gia đa sầu đa cảm hay khóc những cành hoa tàn, những chiếc lá rụng, để tỏ dấu bi ai cho cái bóng phù du của nó. Nhưng mà cành hoa tàn để kết trái, chiếc lá rụng để nhường chỗ cho lộc non, còn thân cây vẫn đứng vững theo thời tiết. Giọt lụy của thi nhơn dẫu đổ, vật hữu thể cứ biến hình biến chất theo cơ sanh hóa.
Trời không riêng thân với ai và thường không phụ người lành (Duy thiên vô thân, thường dữ thiện nhơn) thì việc gì hợp với đức sanh là thiện, còn trái lại là ác.
Tổng luận:
Từ sắt đá cỏ cây, thú vật cho tới loài người, không vật nào không nhờ đức háo sanh của Tạo Hóa mà được tồn tại duy trì phần xác lẫn phần hồn.
Nhược bằng kẻ nào không khám phá được cái sở dụng phàm trần, cùng cái sở dụng Thiêng Liêng của sự sanh thì kẻ ấy lấy làm vô phước.

TRÍ THỨC VÀ TÌNH CẢM

Con người sanh ra bởi hai yếu tố chánh cấu thành, là xác và hồn. Xác do tinh huyết của cha mẹ biến thể. Hồn do điểm linh quang của Đức Thượng Đế ban cho. Hồn ở trong cái xác hay nói một cách khác xác bao bọc hồn. Hồn thuộc về phần tâm linh tinh thần, xác thuộc phần hữu thể vật chất. Tuy cùng chung lộn trong một vật hữu hình duy nhứt mỗi phần đều có bổn phận và phạm vi riêng biệt. Song lẽ không phải vì thế mà rời nhau được.
Tâm linh hay linh hồn là cái đức sáng tự nhiên của con người. Nhờ đó mà cái trí thông suốt được cả sự vật. Nhưng trí thức kia chưa phải đủ vì nó chỉ là một phần nửa trong cái đạo học làm người. Đi đôi với trí thức còn có tình cảm để bổ túc vào hầu đạt tới cái đạo lý làm người hoàn toàn trong xã hội.
Vả chăng ai cũng có sẵn trí thức và tình cảm nơi mình.
Trí thức nếu không được rèn luyện có thể đưa đến chỗ ngụy biện sai lầm cũng như nó có thể đưa đến chỗ chánh chơn ngay thẳng.
Tình cảm nếu không được rèn luyện, có thể đưa đến chỗ tàn sát lẫn nhau, phá hoại cả nền trật tự giữa nhơn quần xã hội cũng như nó có thể đưa đến chỗ vạn vật đồng nhứt thể cùng Trời Đất hiệp một để tiến hóa trong cuộc sinh thành của toàn thể.
Vậy thì trong phép học tập làm người, cần yếu là phát triển cái năng lực của tinh thần trí thức và tinh tiến cái tình vào nơi lẽ ngay đường chính, vào chỗ phải, chỗ nên và giữ gìn không cho biến nghịch. Nếu trí thức không đạt được tới chỗ thông suốt cả vạn vật và tình cảm không phổ biến tới chỗ đại đồng thì công trình học tập làm người chưa rồi.
Muốn cho hai cái năng khiếu, trí và tình được phát triển và không phá hoại lẫn nhau thì phải tập rèn luyện cho cả hai đều được quân bình đồng điệu.
Cho hay tâm với trí ở về phần tinh thần nhưng cả hai đều bắt nguồn từ sanh lực. Nếu cơ thể con người được đầy đủ sức khoẻ thì nguồn sinh lực được dồi dào. Như sinh lực suy nhược thì trí thức và tình cảm thấp kém còn sinh lực khương kiện thanh tao, thì trí và tình được sáng suốt và thâm thiết.
Ở giữa cõi trần đầy cạm bẫy nào là tiền tài danh lợi nào là sắc tướng thinh âm, thân thể người ta là một trường thể lực hay chuyển biến theo vật dục mà trí thức hay tình cảm là động tác. Nếu biết chế ngự cho những thế lực kia không mâu thuẫn và phản trắc nhau thì tập trung nó vào tình cảm thì tình cảm được phong hậu.
Vả lại trí thức do trình độ tiến hóa của mỗi người là cao hay thấp, sáng suốt hay ám mờ. Nếu quan niệm được chánh đáng, ý tưởng được phân minh thì trí tuệ đi sâu vào sự hiểu biết đến chỗ bí ẩn hay chỗ chánh chơn của vạn vật. Thảm nỗi, ý tưởng do ngoại vật cảm xúc nên thường hay nghiêng đổ thiên mê. Đạo học dạy rằng phải có đủ cương quyết đừng để cho vật dục lôi cuốn tâm trí vào nơi vọng động và giữ gìn cho tâm hồn làm chủ động. Đành rằng có khi tâm linh phải chịu theo thân thể vì điều kiện sinh lý, nhưng làm thế nào cho tinh thần chỉ huy xác thịt mới gần được Đạo.

HÒA VÀ ĐỒNG

Hòa là thuận tình thỏa ý, hội hiệp cùng nhau mà không tranh giành hơn thua, cao thấp, giỏi dở, mạnh yếu.
Đồng là kết bầy rập bạn, lập đoàn thể này, tổ chức kia, rồi dắt nhau đi vào một lối đường.
Vả chăng ai ai cũng nhận thức rằng người ta ở đời không thể một mình sống riêng mà dựng nên cơ đồ sự nghiệp cho được. Giá như muốn làm một điều gì mà một mình trơ trọi ắt không rồi, hoặc có rồi cũng không hay. Lẽ dĩ nhiên cần có đông người trợ giúp lẫn nhau, cộng lao, cộng hưởng, thì việc gì cũng đắc thành. Nhơn Đạo cùng chung cộng sự đó, người ta mới có cơ hội phân biệt ai là quân tử, ai là tiểu nhơn. Và phân biệt được hai hạng người đó thì nhờ hai chữ Hòa và Đồng
Rút kinh nghiệm trong phương thiệp thế, người ta thấy rằng người quân tử hòa mà bất đồng, còn kẻ tiểu nhơn đồng mà bất hòa.
Quân tử ví như nấu một thức ăn cần có ngũ vị: Chua, cay, mặn, ngọt, đắng, ngũ vị vẫn không đồng chất lại khác mùi, nhưng cả thảy được điều hòa và bổ khuyết cho nhau làm ra thức ăn ngon lành. Nhờ tương tế cho nhau nên hòa thì hết sức hòa, và không vì lẽ bất đồng chất, hay bất đồng vị mà làm cho nhau tương khắc, tương phản với nhau. Cách cộng sự của người quân tử là thế. Không phân tách hạng người cao kẻ hạ, người giàu kẻ nghèo, người khôn kẻ dại, bậc quân tử tự hạ mình ngang hàng với kẻ khác, và giữ tánh như trước không để làm mất niềm hòa khí giữa mình và thiên hạ. Làm như vậy là vì ích lợi chung, tạo được cái hòa, tức là tạo cái yên cho quốc gia, cho xã hội.
Tiểu nhơn, ví như làm một giống để ăn cũng có ngũ vị nhưng mà mặn không hòa với cay, chua không hòa với đắng, hễ mặn thì dắt nhau thiệt mặn, cay thì hiệp với nhau rất cay. Đồng thì có đồng thiệt mà không hòa được. Cách cộng sự của tiểu nhơn là thế. Chỉ trọng về tư lợi, kẻ tiểu nhơn mượn cái lượng làm thế lực, chớ không san bằng giá trị tuyệt đối của sự vật; cho nên trong cách xử sự hoặc thái quá hoặc bất cập, có thể đi tới bạo phát, nhưng rồi lại bạo tàn vì chỗ bất hòa mà ra.
Xưa nay trong xã hội, sở dĩ bất hòa là nguyên nhân vì bất quân (không cân bằng), và hễ bất quân thì bất yên. Nếu không biết xử sự tiếp vật cho công bằng, thì trong xã hội đó người giàu hiếp người nghèo, kẻ mạnh lấn kẻ yếu, đứa khôn lừa đứa dại, tức giận người giàu, kẻ mạnh, đứa khôn, tất nhiên sinh ra bất hòa. Bất hòa rồi thù oán nhau, mới tìm phương sát hại nhau, thì xã hội hay quốc gia làm thế nào ở yên cho được.
Quân tử sợ loạn nên chuyên chữ hòa, còn tiểu nhân sợ hòa rồi thất lợi. Hai tư tưởng, hai cử chỉ khác nhau mà chung quy phần thắng về quân tử.
Trong cửa Đạo là cửa hằng ngày Hội Thánh quyết sách vận trù để tìm chơn pháp trừ mị diệt tà, hầu dìu dẫn nhơn sanh và quy cả thiện lương vào nơi đại đồng, thì không thể áp dụng cái thuyết “Đồng nhi bất hòa” của “tiểu nhơn” hay “hòa nhi bất đồng” của “quân tử”. Trái lại phải kiêm cả chữ Hòa và Đồng đặng đôi bên phò trì cho nhau mới đi đến đích.
Khác với đời là như thế, và được như thế mới đạt đạo lý làm người trong cửa Đạo. Vậy thì phải thi hành chánh sách gì? Ắt phải cư xử mọi việc cho công bằng ấy là hòa và thương yêu dung chế nhau ấy là đồng.
Hòa thời thật hòa, vì không còn so hơn tính thiệt, ganh hiền ghét ngỏ mưu hại lẫn nhau. Đồng thời thật đồng, coi người như ta, coi ta như người. Không phân giai cấp, không riêng sắc tóc màu da, và chẳng hề rời bỏ nhau cho đặng. Đại Đạo hoằng khai giữa thời đại nhơn sanh tác loạn, chỉ có bấy nhiêu đó thôi.

TRI VÀ HÀNH

Tri là biết - Hành là làm!
Trên con đường học vấn, chẳng phải đọc sách cho thuộc học chữ cho làu, gọi là học được. Tất phải phát minh ý tứ của sách ở ngoài mặt chữ mới gọi rằng biết đọc sách.
Học cho rộng hiểu, rèn luyện cho đa kiến, đa văn là về phần Tri, còn cẩn thận từng lời nói, từng việc làm, là về phần Hành. Nói mà không bị người ta chỉ trích chê cười, làm mà không có một điều gì phải ăn năn hối tiếc, ấy là kết quả công trình học vấn.
Muốn thâu thập kết quả ấy, tất cần trau chuốt về phần Tri cũng như phần Hành cho cực hay, cực mỹ mới thôi.
Kinh Thi rằng: “Như thiết như tha, như trác như ma”.
Cứ theo mặt chữ mà thích nghĩa thì Thiết là cắt, Tha là giũa, Trác là xẻ, Ma là mài.
Đã cắt thành miếng rồi còn phải giữ cho trơn cho láng, như thợ làm đồ xương chẳng hạn.
Đã xẻ đá đặng lấy ngọc rồi còn mài ngọc cho sáng cho tinh, như thợ làm đồ trang sức châu ngọc. Cái vật đã tốt còn cầu cho tinh mới nên của quý.
Tuy có 8 chữ trong kinh Thi mà hàm súc ý nghĩa rất cao xa: hễ biết rồi còn tìm cho đến cùng cái sức lực trong việc làm mới thiệt làm. Bởi vậy cho nên càng hiếu học thì càng thêm hiểu rộng, càng dò càng thấy sâu và cứ tiến mãi mới đạt hết lý.
Lấy cái khiếu biết (Tri) mà xem xét sự vật rồi lấy con mắt tinh thần mà xem xét cho đến chỗ tinh thần của sự việc chừng ấy mới thấy rõ chơn hình chơn tướng của sự vật. Quán triệt rồi liền xoay qua phần làm (Hành). Trong sự làm cần yếu là dẹp cái tư tâm, bỏ cái tư dục, thì không bao giờ sai lầm.
Ví dụ bàn về sự giàu nghèo của thiên hạ, Thầy Tử Cống cho rằng: Nghèo mà không nịnh hót, giàu mà không kiêu hãnh (bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu) là hay rồi. Đến lúc gặp Đức Phu Tử, Ngài vấn về bần phú, Đức Thánh đáp rằng: Nghèo mà vui, giàu mà giữ lễ (Bần nhi lạc, phú nhi hiếu lễ).
Thầy Tử Cống nghe rồi thốt nhiên tỉnh ngộ và phát minh ra được đạo lý dường ấy còn hay hơn nhiều.
Nghèo mà không nịnh hót, đó là Thiết mà thôi, nhưng còn phải vui nghèo nữa kìa, đấy mới là Tha
Giàu mà không kiêu hãnh, đó là Trác mà thôi, nhưng còn phải thủ lễ nữa kìa, đấy mới là Ma.
Thiết với Trác, chỉ là một tầng công phu, còn phải thêm nhiều công phu nữa là Tha với Ma mới đến chỗ tinh mỹ.
Tổng luận:
Tri cái nghèo cái giàu mà Hành, cái nghèo cái giàu cho đến chỗ tinh thần tuyệt diệu của nó mới thiệt Tri và Hành. Chừng ấy người học Đạo mới tịnh tiến con đường tự lập.

BỔN PHẬN ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH

Bổn phận làm cha và làm con
Làm cha phải lành (Từ)
Làm con phải thảo (Hiếu)
Vi “nhơn phụ chỉ ư từ”. Chữ Từ (lành) chỉ về nghĩa vụ người làm cha mẹ phải nuôi con cho nên vai, nên vóc, dạy dỗ cho nên người hữu dụng. Người cha mẹ lành cũng khuyên con răn con tức là làm thế nào để cho con biết bỏ cái dở, để theo cái hay chớ chẳng phải lành là để cho con tự do hành động. Tại sao người cha không để cho con tự do hành động? Bởi vì con còn thơ ấu, trẻ lòng non dạ, nói tóm là con chưa đủ sáng suốt để phân biệt phải quấy và chưa đủ tinh thần cứng rắn để vượt qua những trận thử thách những gì vật dục cám dỗ, vậy nên người cha phải dìu dắt con trên đường đạo đức quang minh.
Đối với con, cha mẹ cũng có quyền lợi như nhờ con nuôi dưỡng lúc về già, nhờ con giúp đỡ việc nặng nề. Cổ nhơn nói: Dưỡng nhi đãi lão (Nuôi con nhờ lúc về già). Nhưng cha mẹ muốn dùng quyền lợi ấy trước phải làm xong nghĩa vụ của mình. Trái lại, nếu cha mẹ không làm tròn bổn phận mình mà cứ sai con, mắng con, như thế là thất phận làm cha mẹ.
Vì “nhơn tử chỉ ư hiếu” hiếu thảo là Đạo làm con, chẳng những không ai được từ khước, mà ai cũng phải coi đó là bổn phận chánh của mình nữa. Cổ nhơn nói: “Nhơn sanh bách hạnh, hiếu vi tiên”. Người ta có trăm nết, song hiếu đứng đầu.
Tại sao người ta phải hiếu với cha mẹ.
Ôi! Công sanh thành dưỡng dục kể bao nhiêu cho hết, nào là mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm, ẩm bồng, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Còn cha lại phải dày công dạy dỗ và cực nhọc làm lụng cho có tiền để nuôi con dầu trăm cay ngàn đắng, dầu vào cảnh nguy nan, người cha không hề thối bước, công cha như núi Thái Sơn. Công cha nghĩa mẹ như thế, hỏi vậy ở đời có người nào mà chẳng thương mến chăng? Ắt không. Nhưng thương mến chưa đủ, nghĩa vụ bắt buộc người con phải làm cho tròn đạo hiếu.
Thực hành đạo hiếu, trước nhứt phải nuôi cha mẹ, sự nuôi ấy cốt ở lòng thành kính, nghĩa là giàu nuôi theo giàu, nghèo nuôi theo nghèo, ngoài miếng ăn uống, manh quần tấm áo, con phải hết lòng vui vẻ trong phận sự, để cho cha mẹ vừa lòng.
Một hôm Thầy Tử Du hỏi chữ Hiếu, Đức Khổng Phu Tử đáp: “Ngày nay, người ta báo hiếu là biết nuôi cha mẹ, nhưng đến như giống chó ngựa kia cũng có người nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà không thành kính thì lấy gì để phân biệt”.
Xem đó thì đủ biết nuôi cha mẹ quý tại lòng thành kính. Chẳng nên bắt chước câu “Giàu thì đặng thảo ngay, nghèo thì mất trung hiếu”. Lời ấy chẳng qua là nói để che lỗi của mình mà thôi. Trái lại, nên nhớ câu “Nhà nghèo mới biết con thảo, nước loạn mới biết trung thần”. Từ xưa những gương trung hiếu tiết liệt phần nhiều do ở trong những nhà nghèo sanh ra vậy.
Khi ở chung với cha mẹ, chẳng nên làm buồn cha mẹ, nếu mình có việc buồn riêng, và cũng chẳng nên tỏ giận hờn cho cha mẹ thấy nữa. Nếu cha mẹ có quở trách, thì giữ sắc thái điềm nhiên lo xét mình mà chữa lỗi.
Cha mẹ già phải coi chừng sức khoẻ, nghĩa là nuôi cha mẹ phải xem đến chỗ chưa nói kia. Tại sao? Bởi vì có nhiều khi cha mẹ sợ con lo buồn mà chẳng tỏ ra việc người cần đến.
Cha mẹ sanh tiền chẳng đi xa, nếu cần phải vắng mặt thì phải cho biết chỗ, cha mẹ khỏi lo lắng cho mình, và để người ta tìm cho dễ. Khi cha mẹ đau ốm, kẻ làm con phải tận tâm chạy thuốc, chạy Thầy, chính mình phải lo liệu mọi phương. Biết đâu người khác, vì sơ sót, họ làm thêm bệnh cho cha mẹ mình. Bình nhựt cũng xem chừng nếu cha mẹ khoẻ thì mình vui mừng, mệt thì lo lắng.
Lòng hiếu thảo với cha mẹ, ai cũng có nhưng có một ít người ham mê sắc dục, hoặc cậy có tiền của rồi sanh ngỗ nghịch. Vậy ai là người làm con nên thận trọng bổn phận của mình.
Nhưng đạo hiếu không phải nhắm mắt phục tùng cha mẹ, mà trái lại phải xem xét cái gì của cha mẹ đã làm, nếu hay thì theo, còn lầm lỗi thì ôn tồn mà khuyên can, sửa đổi. Nếu cha mẹ không nghe, thì lại kính mà không trái lễ, nghĩa là lẳng lặng lựa cách nói cha mẹ nghe lẽ phải, để sửa đổi, có khi cha mẹ giận mà đánh đập cũng không oán giận.
Khi cha mẹ qua đời thì phải tang chế, Tân Luật Đại Đạo định rằng việc tang chế không nên xa xỉ, không nên để lâu ngày, không nên dùng đồ âm công loè loẹt, không nên đãi đằng rần rộ, mà mất sự nghiêm tịnh và dấu bi ai.
Đức Khổng Phu Tử cho sự thờ cha mẹ rất hiếu “Kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí dã” (Kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, thờ cha mẹ lúc chết rồi cũng như khi còn sống, lúc mất rồi cũng như lúc còn ấy là hiếu rất mực vậy). Theo đó mà suy ra thì khi cha mẹ chết rồi, kẻ làm con phải chuyên tâm tri ý làm tròn bổn phận cũng như cha mẹ sống tại tiền.
Bổn phận làm anh chị và làm em
Huynh tắc để, đệ tắc cung
Anh em, chị em đồng thọ sanh nơi một cha mẹ, tục ngữ nói: “Một cục máu xắn ra làm năm ba”. Đồng cốt nhục, đồng bào thai cho nên tình thân mật không ai bằng anh em, chị em. Từ lúc nhỏ dại ở chung một nhà, ăn một mâm, nằm một chiếu, vui có nhau, buồn có nhau, nhứt nhứt đều chung cùng với nhau như một. Vậy cái tình thương yêu khắng khít ở giữa anh chị và em không tình nào hơn được.
Muốn giữ gìn cái tình máu mủ ấy mãi mãi thì người anh chị phải biết bổn phận mình là thuận yêu, kẻ làm em phải biết bổn phận mình là cung kính.
Khi cha mẹ vắng mặt, người anh chị có quyền thay thế cha mẹ, nghĩa là người anh chị phải làm tròn nghĩa vụ của mình là thế phụ, tức là thay mặt cho cha mẹ nuôi em, dạy em, cổ nhơn thường khuyên nhau rằng trước phải làm nghĩa vụ rồi sau mới dùng quyền lợi.
Lúc thành nhơn, mỗi người đều có gia đình anh em, chị em cũng phải giữ cái tình cốt nhục duy nhứt ấy, mãi từ khi tóc xanh đến lúc đầu bạc, nghĩa là phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau việc nhỏ cũng như việc lớn. Phải tránh những tiếng to tiếng nhỏ của vợ con hay chồng con. Theo thường tình những anh em chồng chị dâu, hay em rể anh ruột, hay chinh nghiêng lẫn nhau trong những việc nhỏ mọn. Bổn phận anh chị hay em phải sáng suốt mà phân định, để tránh cái vạ chia ly. Anh chị em là di hài của cha mẹ, bất hòa là phá hoại cái di hài ấy. Anh chị em như chân tay bất hòa là chia lìa thủ túc.
Người nào xử được đạo hiếu để nghiêm trọng thì người ấy có tinh thần hòa kỉnh. Hiếu thuận là gốc đạo xử thế, ấy vậy nên người trọn thảo thuận thì có lòng trung quân ái chúng.
Bổn phận con cháu đối với ông bà
Ông bà là Đấng sinh thành dưỡng dục cha mẹ, lại là Đấng cha mẹ thương mến quý trọng. Đạo hiếu buộc người làm con phải kính trọng những người mà cha mẹ thâm giao. Ấy đó là những người bàng quan mà còn xử trí như thế huống chi ông bà là ruột thịt của cha mẹ chúng ta mà chúng ta lại dể duôi sao?
Vậy khi ông bà sanh tiền chúng ta phải thay mặt cho cha mẹ chăm nom ông bà, những việc nào mà chúng ta có thể làm được. Còn khi ông bà qua đời thì lại thay mặt cho cha mẹ mà thờ phượng cúng tế ông bà.
Thờ phượng cúng tế ông bà, là lễ tỏ lòng tôn kính nguồn gốc sinh thành dưỡng dục. Lòng tôn kính ấy nơi người Việt Nam theo Nho giáo thường phát biểu với một phương thức trang nghiêm.
Ngày tế tự cả gia tộc về nhà thờ để lo việc tế lễ. Hai ngày tiên thường và chánh giỗ những người họ hàng vui vầy, có khi nhắc lại sự tích Tổ Tiên, có lúc hỏi việc hàn huyên gia tộc. Giờ cúng tế mỗi người đều có lòng thành kính rất mực. Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn thờ họ cúi đầu tỏ vẻ sợ sệt, dường như ông bà đang ngự trên chỗ sở tôn. Giờ tế lễ ấy, hoàn cảnh yên lặng, người Trưởng Tộc hành lễ, rồi đến con cháu cứ theo thứ tự vái lạy trang nghiêm.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giữ nguyên vẹn các lễ thờ cúng ông bà đó. Vả chăng, Đạo hữu đã sẵn có đạo tâm, nay đem lòng thành kính ấy mà thờ cúng ông bà, thì có lẽ cái phong tục cổ truyền sẽ được tăng thêm phần thuần mỹ nữa.
Bổn phận làm chồng và làm vợ
Chồng hòa vợ thuận
Trai lớn thì có vợ, gái lớn thì có chồng. Người ở đời phải có đôi có bạn rồi sau mới lập được gia đình. Cái định luật ấy từ xưa đến nay vẫn không thay đổi. Trong đạo vợ chồng, có điều tốt nhứt là hai người ấy được thuận hòa, ăn ở với nhau từ tóc xanh đến khi đầu bạc. Mà muốn được vậy, thì mỗi người phải biết bổn phận của mình và phải hành vi trong phạm vi ấy.
Chồng là rường cột của gia đình, phải đảm đương mọi việc bên ngoài, để tạo hạnh phúc gia đình, nghĩa là phải làm lụng cho có cơm, có tiền nuôi dưỡng gia đình no ấm, kế đó sẽ nói đến việc lễ nghi đạo đức, tức là bàn đến việc dạy dỗ. Cổ nhân nói: “Giáo phụ sơ khai, giáo tử anh hài”. Nghĩa là: Phải dạy vợ lúc ban sơ, phải dạy con lúc thơ ấu. Mà muốn dạy người trước phải sửa mình, để làm gương. Giả tỷ như chồng biếng nhác, không lo làm ăn, quanh năm cứ lêu lổng, chơi bời, cờ bạc. Chồng như thế mà bảo vợ nên người, thì không thể được, cha như thế, mà bảo con đừng đánh bài thì cũng không sao được. Người chồng chẳng những phải lo làm lụng để tạo hạnh phúc cho gia đình, mà còn phải có tinh thần hòa ái nữa.
Về tâm lý, nên biết rằng vợ là bạn trăm năm, được cha mẹ lựa chọn, họ là người yếu đuối, nương dựa nơi mình, gởi thân cho mình để cùng nhau chung lo việc trăm năm gia thất. Hơn nữa, vợ chồng lại là người đầu ấp tay gối với nhau, vui chung vui, buồn chung buồn, nghèo chung chịu, giàu chung hưởng. Lòng có nghĩ như thế, thì mới có dạ yêu thương mà đùm bọc nhau.
Người chồng có quyền khuyên lơn dứt bẩn người vợ, nhưng trước phải làm xong nghĩa vụ của mình như đã nói trên, rồi sau mới dụng đến quyền. Tuy nói rằng có quyền nhưng người chồng lúc nào cũng lấy tinh thần hòa ái làm cốt. Nghĩa là có khuyên lơn, dứt bẩn người vợ, thì cũng chỉ trong vòng lễ nghi hòa ái, chớ không phải đang tay đánh đập vũ phu.
Người vợ phải có tinh thần thuận tùng, nghĩa là phải biết dung hòa với chồng, để tạo nên hạnh phúc gia đình. Bát trong sóng còn động, huống chi vợ chồng ăn ở nhau cả đời, làm thế nào tránh khỏi một đôi khi bất đồng ý kiến. Giả tỷ như có xảy ra việc như thế, thì vợ chồng nên nhịn nhục lẫn nhau, chồng nói vợ nghe, vợ nói chồng nghe, để phân trần điều hơn lẽ thiệt. Nên tương ý, tương ý mà sanh sống trong vòng lễ nghi đạo đức. Chẳng nên bắt chước phường hỗn ẩu chồng một lời đi thì vợ dăm bảy tiếng lại. Thế rồi sanh việc bất hòa. Chồng vợ bất hòa thì gia đình tan nát.
Phận gái trọng nhất là trinh tiết, bởi vậy người phụ nữ có thân phải giữ lấy thân, càng ngày phải càng làm tăng giá trị của mình thêm nữa lên cao mãi. Tiên Nho có câu: “Đi ngang đám dưa không nên sửa dép, đi dưới cây lý không nên gãi đầu”. Đại ý câu này khuyên người ta những hành vi ăn nói đứng đi trang hoàng, nhứt là phải tránh cử chỉ nào làm người khác ngờ vực, cũng như đi qua đám dưa không nên sửa dép, hoặc đi dưới cây lý không nên gãi đầu, vì làm như thế người ta ngờ rằng mình bẻ trộm dưa hay hái trộm lý.
Tề gia là bổn phận của đàn bà, cho nên người vợ phải chăm lo việc nhà, thiếu đủ phải biết, còn hết thì phải hay, sắp đặt đâu đó an bài, ăn cần ở kiệm, phải biết trọng tiền của chồng làm ra là cực nhọc, Tục ngữ có câu: “ăn nhịn qua ngày ăn vay mắc nợ”. Của chồng công vợ, chồng vợ cộng tác để tạo hạnh phúc cho gia đình.
Tóm lại, đạo vợ chồng cốt nhứt là phải thuận hòa, chồng chẳng nên ỷ quyền mà hiếp đáp vợ, vợ không nên cậy thế mà hỗn ẩu với chồng. Đồng vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn.
Tân Luật Đại Đạo nói: “Hôn nhơn là việc rất quan trọng trong đời người, phải chọn hôn trong người đồng Đạo, trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn, thì mới kết làm giai ngẫu". Đó là có ý ngừa sự bất trắc về sau.
Tân Luật lại cấm người đàn ông không được cưới hầu thiếp, rủi có chích lẻ giữa đường mới được chắp nối. Thoảng như vợ lớn không con nối hậu, thì được phép cưới thiếp, song chính mình chánh thê mới đặng. Người Đạo chẳng được để bỏ nhau, trừ ra tội ngoại tình hay thất hiếu với công cô.
Bổn phận đối với cậu cô chú bác
Cậu cô, chú bác là anh em ruột thịt với cha mẹ, kẻ làm cháu chẳng những phải yêu mến, mà còn quí trọng như cha mẹ vậy. Nếu vô phước mồ côi, thì chính cậu, cô chú bác là người thay mặt cho cha mẹ nuôi mình. Đó đủ thấy rằng con cháu phải thương mến quý trọng cậu cô chú bác như cha mẹ.
Khi thành gia thất rồi, tự nhiên ai cũng có cậu cô chú bác bên chồng cũng như bên vợ. Kẻ làm con cháu cũng không vì lẽ gì mà không thân ái với những người ấy.

NGŨ THƯỜNG

Ngũ thường là năm đức thường của người ta là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, kế đây sẽ giảng rộng ra.
Nhân: Người ta ai cũng có bẩm thọ của Trời một điểm lành, để làm tự tánh của mình, người đời gọi đó là nguồn Thiên lý ở trong người. Nhân là cái phát động của Thiên lý ấy, cho nên cổ nhơn nói: “Nhân” là hột giống hóa sanh cái đức tính tốt.
Chữ Nhân đem ứng dụng vào đời sống thì nó gồm tất cả nghĩa vụ làm người, thành thử có câu nói: “Nhân là Đạo người” (Nhân giả nhơn dã). Vậy thi hành chữ “Nhân” là áp dụng Thiên lý vào đời sống thực tế. Thế nên muốn làm Nhân thì phải giữ lòng cho sạch, nghĩa là chẳng cho tư dục xen vào Tâm, để cho nguồn Thiên lý ở trong tâm ung dung phát triển theo lẽ tự nhiên của nó, rồi người ta cứ theo đó mà làm cho hết bổn phận của mình, đó là làm “Nhân” vậy. Còn như muốn biết rộng ra nữa thì chúng ta nên xem cổ nhơn dạy phương pháp làm “Nhân” như sau:
Có người hỏi phương thức làm Nhân là thế nào thì Đức Khổng Tử nói: “Kỷ dục lập nhi lập nhơn, kỷ dục đạt nhi đạt nhơn. Năng cận thủ tỷ khả vị nhân chi phương”. (nghĩa là mình muốn lập thân thế nào thì giúp người cùng lập thân như mình, mình muốn thông đạt đến đâu thì cũng giúp người cùng thông đạt như mình. Ai hay làm những điều đó là Nhân vậy).
Chữ Nhân có gồm cái nghĩa thương người, mến vật, cho nên chỗ tác dụng của nó là “Ái” về sau người ta thường dùng hai chữ “Nhân Ái” lẫn nhau.
Vậy thực hành đạo “Nhân” là người và ta thương yêu, giúp đỡ nhau trên đường Đời cũng như trên đường Đạo. hoặc nói: đó là chánh kỷ hóa nhơn cũng được.
Thầy Tử Trương hỏi Nhân, Đức Khổng Tử nói: “Hãy làm năm điều trong thiên hạ là Nhân, rằng: Cung, Khoan, Tín, Mẫn và Huệ”
Cung thì không khinh lờn, Khoan thì được lòng người, Tín thì được người tin cậy, Mẫn thì có công, Huệ thì đủ khiến được người.
Người có nhân lúc nào cũng bình tĩnh, yên lặng tự nhiên như nhiên mà lòng sẵn có một năng lực trực giác mẫn tiệp. Phàm có việc gì đến thì họ biết ngay và họ làm sự gì cũng thích hợp với đạo lý.
Họ thật thà chất phác và giàu tình cảm tốt. Họ hay thương người, hay mến vật, đối với gia đình thì hiếu đễ, đối với xã hội thì thuận hòa. Họ thường thực hành câu: “Việc gì mình không muốn thì chẳng làm với người”. Chữ Nhân đây lại gồm cái ý nghĩa sáng suốt, cho nên cái thương, cái ghét của người có Nhân đều hạp với Thiên lý.
Tóm lại, chữ Nhân bao hàm cả đạo làm người mà rút lại thì thể theo đức lớn của Trời là sự sanh hóa mà làm. Ấy vậy kẻ làm Nhân trên thuận lẽ Trời, dưới an vui cùng chúng vật và sự hành vi lại khích lệ theo nền tảng “Thiên địa vạn vật nhứt thể”. Còn việc giàu nghèo, sang hèn, thì phú cho thiên mạng, chớ không vọng cầu mà thất đạo lý.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét