Thứ Bảy, 5 tháng 2, 2011

CAO THƯỢNG PHẨM

LỜI GIỚI THIỆU

Của Ngài Chưởng Ấn HTĐ Nguyễn Văn Hội
Bộ Pháp Chánh Toà Thánh Tây Ninh
    Kính thưa quí chư tôn liệt vị Người đời thường nói, hùm chết để da, người ta chết để tiếng . Các đấng anh hùng liệt sĩ khai quốc công thần, đứng về phương diện quốc gia thanh danh vẫn lưu truyền thế đại huống chi các bậc giáo chủ khai nguyên nền Đạo, đem triết lý nhiệm mầu làm ngọn đèn chân lý soi sáng ngàn đời cho nhơn loại Đại Đồng há chẳng là những bậc vạn thế sư được mãi tôn sùng ?
    Như Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư đây là người tiền bối đứng vào đứng vào bậc tam đại vĩ nhân cùng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang, đầu công khai sáng nền Đạo Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
    Quyền tiểu sử Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư được ông Hiền Tài Trần Văn Rạng trưởng nhiệm giáo lý Ban Thế Đạo soạn khảo rất công phu gồm nhiều đoạn và được xem như phần tổng quát trên bước đường đời cũng như đường Đạo của một bậc vĩ nhân tiền hiền của Đạo.
    Đức Cao Thượng Phẩm là một đấng siêu phàm, tự giác trong kiếp mộng trần được Đức Chí Tôn thâu dụng đứng hàng đầu trong Thánh Thể Đức Chí Tôn về Hiệp Thiên Đài, Đức Ngài rất dài công khai cơ phổ độ, lập Đạo từ lúc sơ khai, là một ân nhân của toàn Đạo, đã chẳng màng khổ hạnh chấp nhận cơ hàn đặt chơn trước nhứt nơi khí độc rừng thiêng để khai mở ngôi Thánh Địa ngày nay, đã trở thành nơi Tổ Đình nền chơn giáo lưu truyền vạn đại.
    Đã gọi là tiền sử, dầu chưa hẳn đầy đủ kỳ công và đức độ của một vị Thiên quân Thượng phẩm nhưng cũng tạm đủ cho chư quí đọc giả và chư tín hữu Cao Đài được ghi khắc công ơn cao dày của bậc đàn anh trót hy sinh phụng sự cho Đạo.
    Tôi xin có lời giới thiệu, Toàn chư quí đạo tâm có lòng hoài cổ ân sâu các bậc tiền hiền khai cơ lập Đạo, cho chúng ta và chúng sanh đời đời sùng ngưỡng.
Toà Thánh, ngày mùng 9 tháng giêng năm Nhâm Tý
(23-2-1972)
Chưởng Ấn HTĐ
Nguyễn Văn Hội

THAY LỜI TỰA

Thuở bà Nữ Đầu Sư Nguyễn Hương Hiếu còn sinh tiền, tôi thường hay tới Nữ Đầu Sư Đường để học hỏi việc đạo và tìm hiểu về thời khai nguyên của Cao Đài giáo, vì bà là chứng nhân hiếm có, am tường nhiều sự việc và bí pháp của Đạo.
Trong những chức sắc Đại Thiên Phong mà tôi đã gặp, phải nhận nơi bà có một tấm lòng nhiệt thành và cường lực tin tưởng vào các Đấng ở cõi Thiêng liêng. Bà thuật chuyện một cách khẳng định, coi như đương nhiên những sự việc có thật, xảy ra thật, dù là người ngoại đạo cũng nhận ý chân thành.
Những sự việc ấy, tôi góp nhặt viết thành quyển Đại Đạo Bí Sử đã phổ biến rất hạn chế, theo ý muốn của bà hôm 13-9-Canh Tuất (12-10-70) tôi đến thăm bà và ngỏ ý xin xuất bản quyển tiểu sử Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư. Bà tỏ vẻ hài lòng vì có người còn nhớ đến người bạn đời của Bà, nhưng muốn tôi nên gát lại, đến khi nào bà qui sẽ cho ấn hành, rồi bà kể cho tôi nghe vài đoạn đời của Đức Thượng Phẩm. Đoạn bà tặng tôi một quyển “SƠ GIẢI SỰ TÍCH XÂY BÀN” bằng hình ảnh với bút tích của bà và nói : “Em nên viết theo quyển này”.
Trong Pháp Chánh Truyền ghi rõ : “Thượng Phẩm lo về phần Tịnh Thất …Các Tịnh Thất đều về quyền của Thượng Phẩm cai quản”. Thế nên, Đức Ngài lập Tịnh Thất đầu tiên năm 1927 và được bà Thất Nương giáng ban danh hiệu là Thảo Xá Hiền Cung. Nhưng Đức Ngài sớm qua đời, nên Đức Hộ Pháp được Đức Phật Mẫu ban cho “Vẹn toàn Bí Pháp” tịnh luyện (xem thêm Chân Dung Hộ Pháp Phạm Công Tắc). Dù vậy, Đức Cao Thượng Phẩm vẫn luôn ưu ái chư tín đồ, nên giáng cơ ban cho Luật Tam Thể để hành giả coi theo đó mà tu luyện cho đạt thành chánh quả. Thế nên, việc phổ độ và tịnh luyện song hành trong dòng chảy của nền Đạo, bất phân ly.
Thỉnh giáo người xưa, sau khi sửa chữa và tăng bổ, tôi mạo muộn cống hiến đọc giả quyển Cao Thượng Phẩm và Bà Đầu Sư Hương Hiếu nầy ,với tâm thành hoài niệm các danh nhân Đại Đạo.
Toà Thánh, ngày 21-9-Tân Hợi
(dl 8-11-1971)
Hiền tài : TRẦN VĂN RAÏNG
Trưởng Nhiệm Giáo lý B.T.Đ

PHẦN THỨ NHỨT


ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM

Chương I

MỘT NGƯỜI ĐỨC HẠNH
(1887-1924)

Miền sông dài núi thẩm Tây Ninh được Đại Nam Nhất Thống Chí ghi là : Tứ tân phù khánh, giang thủy đắc chung, một miền rất thuận cho đạo pháp và có mầu nhiệm phát sinh.
Vào mùa thu năm Mậu Tý (1887) một chơn linh do khí thiêng chung đức giáng phàm. Đó là Cao Quỳnh Cư hạ trần vào năm Đồng Khánh thứ hai, bên nhánh sông Vàm Cỏ Đông, chảy về làng Hiệp Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Ngài là con ông Cao Quỳnh Tuân và bà Trịnh Thị Huệ (đắc phong Giáo sư, một cấp chức sắc của Cao Đài giáo, năm 1927). Cụ ông là Cai Tổng Hàm Ninh Thượng (qui vị trước khi Ngài Cao Quỳnh Cư ngộ đạo). Nhờ đó, Ngài thọ bẩm khí chất của thân sinh nên tính tình điềm đạm, nho phong, "nối dòng trâm anh, vốn nhà thi lễ, phẩm hạnh mực thước, tính chất siêng năng, học hỏi thông minh, thành danh khi tuổi trẻ. Lúc ở thế xử tròn nhân đạo" (Theo bia kỷ niệm Đức Cao Sĩ Thượng Phẩm). Bởi lẽ, Ngài đối xử rất khoan hòa tử tế với các bạn đồng sở, việc nào có thể giúp được là giúp ngay, không câu nệ, rất mực thương yêu bằng hữu, không khinh thường ai. Dù có một người nào làm phật lòng Ngài hoặc sai lệch ý kiến của Ngài, Ngài từ tốn giải bày hoặc cười nhẹ nếu thấy không cải sửa được.
Vào năm 1907, Ngài thành lập gia đình với bà Nguyễn Thị Hiếu (thọ phong Giáo Sư năm 1927, thăng lên Đầu Sư năm 1968, chức sắc cao nhất bên Nữ phái và qui vị ngày 3-6-1971. Nếu phải kể Đầu Sư chánh vị lúc còn sanh tiền thì bà là người thứ nhứt, vì bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh lúc qui vị rồi mới được Đức Chí Tôn ân tứ, còn bà Hương Lự chỉ là Đầu Sư hàm phong). Hai năm sau khi lập gia đình bà sanh được 1 người con trai là Cao Quỳnh An. Cậu An khi trưởng thành du học tại Pháp, nhưng chưa thành danh thì qua đời.
Năm 1915, Ngài vào làm thư ký Sở Hỏa Xa Sài Gòn và đưa gia đình xuống ngụ ở 134 Bourdais (nay là calmette, Sài Gòn). Đời công chức xuôi dòng trên 10 năm lên đến ngạch cò mi, được triều đình Huế ban cho huy chương Kim Tiền đệ tam hạng (sapèque d'honneur) năm 1925, thì ngộ đạo, rồi có ý định bỏ sở làm. Các bạn đồng sở thấy Ngài chưa tới tuổi hưu trí, nếu đi hành đạo lấy tiền đâu để chi dụng, mới khuyên Ngài :
-Thầy tư, sao thầy quá tin dị đoan, con còn đang học bên Pháp, mà Thầy đi như vậy thì việc học của con phải dở dang sao ?
Đã quá suy tư giữa hai con đường đời và đạo phải chọn một. Kiếp phù sinh có bao nhiêu, tạo tiền tài danh vọng thì phải bất chánh, càng chồng chất thêm tội lỗi, lúc chung qui vẫn trắng tay. Ngược lại đường đạo an ủi vỗ về tinh thần con người thơ thới khỏi bon chen trục danh cầu lợi, lại là cơ cứu khổ siêu độ cho toàn thể nhân loại : hơn là quanh quẩn với đầu óc hẹp hòi chỉ nghĩ đến tư lợi cho cá nhân và gia đình. Tất nhiên Ngài chọn con đường vĩnh cửu, loại bỏ cái hào nhoáng nhất thời của thế sự, thế nên Ngài lẳng lặng không đáp, chỉ nghe theo tiếng gọi của thiêng liêng, dù một mai bị khảo đảo ngần nào cũng không thối thân lui bước.

Chương II

NGỘ ĐẠO VÀ ĐẮC PHONG THƯỢNG PHẨM
(1925-1926)

Năm Ất Sửu (1925) là năm việc xây bàn hay "sai ma" rất thịnh hành trong các giới tại miền Nam Việt Nam, nhất là tại Thủ Đô Sài gòn.
Trước hết, vì sự háo kỳ mà ba ông bạn chí sĩ Cao Quỳnh Cư (sau đắc phong Thượng Phẩm), Phạm Công Tắc (sau đắc phong Hộ Pháp) và Cao Hoài Sang (sau đắc phong Thượng Sanh) mới nghĩ ra việc xây bàn để tiếp chuyện với những người khuất mặt, thế giới bên kia. (Theo Đạo Sử cơ bút của Trương Hiến Pháp).
Do đó, vào ngày 25/7/1925 (ngày 5/6/Ất Sửu) hai Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến nhà Ngài Cao Hoài Sang bên cạnh chợ Thái Bình (phố hàng dừa Sài Gòn) để thăm viếng và hàn huyên tình đời thế sự. Càng lúc càng khuya, vì thần linh thúc giục, các Ngài mới nghĩ đến việc xây bàn. Ba Ngài đem ra trước hiên nhà một cái bàn vuông bốn chân (bàn này hiện để tại Nữ Đầu Sư Đường) kê cho 1 chân hỏng đất rồi đồng để tay lên bàn khấn vái. Lúc sơ khởi gặp nhiều khó khăn, ba vị đốt nhang khấn nguyện từ 21 giờ tối đến 2 giờ đem, có nhiều vong linh nhập bàn viêt tiếng Anh, Pháp và Hoa ngữ, cũng có một vong linh học sinh Hà Nội viết tiếng quốc ngữ. Cái bàn gõ khi chững chạc, khi lựng khựng, dường như có nhiều vong linh tranh nhau để nói chuyện. Do đó, các Ngài nản lòng ngưng xây bàn.
Việc xây bàn thật vất vả vì chỉ có khẩu ước với các Đấng vô hình trong vần quốc ngữ. Như nhịp 1 cái là "A", hai cái là "Ă" và ba cái là "Â" … Khi chân bàn ngừng lại chỗ nào thì người ngồi biên chữ ấy (người ngồi ngoài lúc bấy giờ là bà Nguyễn Thị Hiếu) rồi nhiều chữ ghép lại thành 1 tiếng, nhiều tiếng mới ghép lại thành lời văn hay câu thơ. Nhưng về sau nhờ thuần điển và quen việc nên sự tiếp chuyện với các Đấng Thiêng liêng càng mau lẹ và dễ dàng.
Qua đêm thứ nhì (26-7-1925), ba Ngài lại xây bàn, đúng 24 giờ có một vong linh nhập bàn, nhập bàn ráp thành bài thi bát cú Đường luật.
      THI Ly trần tuổi đã quá năm mươi, Mi mới vừa lên ước đặng người. Tổng mến lời khuyên bền mộ chép Tình thương căn dặn gắng tâm đời Bên màn đôi lúc trêu hồn phách, Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi. Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm, Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời. Ký tên CAO QUỲNH TUÂN (Thiên đình)
Cụ Cao Quỳnh Tuân là thân phụ của Ngài Cao Quỳnh Cư qua đời đã 25 năm, Ngài đọc tới câu thứ 7 quá ngậm ngùi, nên thưa :
Thưa Thầy, ngày mai con xin nấu mâm cơm cúng, con kính thỉnh Thầy về chứng lòng thảo của con.
Vong linh của cụ Tuân liền chuyển cái bàn gõ hai cái, tỏ ý nhận lời.
Đến đêm 30/7/1925 (10-6-Ất Sửu), ba Ngài lại họp nhau tại nhà Ngài Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn. Hôm ấy có 1 nữ vong linh giáng bàn cho thi :
      THI Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài. Những ngỡ trao duyên vào ngọc các, Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài. Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi, Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai. Dồn dập tương tư quằn một gánh, Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai ? Ký tên ĐOÀN NGỌC QUẾ
Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi :
-Hồi tại thế xứ ở đâu ?
-Ở chợ Lớn.
Ngài Phạm Công Tắc hỏi :
-Cô học ở đâu ?
-Học trường Đầm.
Tên Đoàn Ngọc Quế chỉ là tên mượn (tá danh) tên thật của cô là Vương Thị Lễ, cháu ông Vương Quan Kỳ (theo Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống). Nhưng tầm nguyên còn nhiều bí hiểm hơn nữa.
Theo lời của Đức Hộ Pháp thuật lại thì tiền kiếp của cô Quế là một vị công chúa con một vị vua. Trong triều có một vị quan thầm yêu cô nhưng thấp hèn, vì lẽ môn đăng hộ đối không được ngôi phò mã nên cô thất tình sầu muộn mà chết.
Đến kiếp này, cô đầu thai vào gia đình Tổng Đốc Phương là bên ngoại của cô. Đến tuổi cập kê cô lâm bịnh trầm kha, chạy đủ thầy đủ thuốc mà không hết bịnh. Thân mẫu cô mới nói, ai cứu được cô thì bà gã cô cho.
Lúc bấy giờ một ông thầy thuốc Tây học ở hà Nội (Médecin Indochinois) chưa vợ mới bổ đến Sài gòn. Gia đình cô rước đến chữa bệnh cho cô. Thoạt nhiên, cô mạnh. Nên biết vị lương y này là ông quan trẻ tuổi thầm yêu cô trước kia vì tiền duyên mà hai người cùng đi đầu kiếp để nên nghĩa đá vàng.
Nào ngờ, thân mẫu cô quên lời hứa cũ, chỉ trả tiền cho người thầy thuốc rồi thôi. Còn cô giữ dạ keo sơn âm thầm nhớ thương vị lương y mà "phủi nợ xuống tuyền đài".
Ba người đều có họa bài thi trên, riêng bài của Ngài Cao Quỳnh Cư như vầy :
      HỌA VẬN Rằng liễu khóc oanh có mấy ai, Mộ người quốc sách lẫn thiên tài. Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các Xót bạn tri âm cõi dạ đài. Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm trước. Một mồ cỏ loáng ủ nhành mai. Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng Rằng liễu khóc oanh có mấy ai.

Cũng đêm đó, Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi cô bệnh chi mà chết, cô đáp bằng hai bài thi như vầy :
      THI Trời già đành đoạn nợ ba sinh Bèo nước chia hai một gánh tình Mấy bữa nhăn mày lăm chước quỉ Khiến ôm mối thảm tại Diêm Đình.
      Người thời Ngọc mà với Kim đàng Quên kẻ dạ đài nỗi thảm mang Mình dặn lấy mình, mình lại biết Mặc ai chung hưởng phận cao sang.
Nhờ tìm được mộ cô Vương Thị Lễ nên ba Ngài càng tin (1). Hôm sau Ngài Cao Quỳnh Cư mời hai Ngài Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang qua tư gia mình để xây bàn, mời cô Đoàn Ngọc Quế về dạy làm thi. Nhân tiện ba Ngài hỏi cô Quế về Thượng giới, cô tiết lộ đôi điều khiến các Ngài thêm mê học hỏi. Rồi cô gọi Ngài Cao Quỳnh Cư là anh cả, Ngài Phạm Công Tắc là Nhị ca, Cao hoài Sang là Tam ca, còn cô là Tứ muội.
Đến ngày 3/8/1925 (15/7/Ất Sửu) thiết đàn xây bàn, các Ngài được cô Đoàn Ngọc Quế báo tin có một Đấng đến tiếp xúc.
~~~~~~~~~~~~~~
( Chỉ có mộ cô Lễ chớ không có mộ cô Quế vì Đoàn Ngọc Quế là tên mượn.)
      THI Ớt cay cay ớt gẫm mà cay, Muối mặn ba năm muối mặn dai. Túng lúi đi chơi nên tấp lại Aân bòn chẳng chịu tấp theo ai. A-Ă-Â
Ngài Phạm Công Tắc nghe dứt bài thơ lấy làm khó chịu. Ngài Cư hiểu ý liền nói với Ngài Phạm Công Tắc rằng :
-Aäy, em ngồi lại cho qua hỏi, vị nầy không phải tầm thường đâu em.
Ngài Cao Quỳnh Cư liền hỏi :
-Ông A-Ă-Â mấy chục tuổi ?
Đấng A-Ă-Â gõ bàn hoài không ngừng, đếm đến mấy trăm cái mà cũng không thôi. Ngài Cao Quỳnh Cư sợ không dám hỏi nữa. Ngài Phạm Công Tắc hỏi ông ở đâu, thì được cho bài thi :
      THI Tròi trọi một mình không mới thiệt bần, Một nhành sen trắng náo nương chân. Ở nhà mượn đám mây xanh kịt, Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần, Bố hóa người đời gây mối đạo Gia ân đồ đệ dựng nền nhân Chừng nào đất dậy trời thay xác, Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.
Đến 18/8/1925 (1/8/Ất Sửu), cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn, các Ngài hỏi rằng:
-Em còn có chị em nào nữa biết làm thi, xin cầu khẩn đến dạy ba anh em qua làm thi.
Cô Đoàn Ngọc Quế nhịp bàn trả lời :
-Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nhứt Nương làm thi hay lắm. và cô lại thêm:
-Ba anh muốn cầu thì ngày đó : ba anh phải ăn chay, mới cầu được.
Ba Ngài lãnh ý cô Đoàn Ngọc Quế , ngày cầu ba ông ăn chay.
Đến ngày 25/8/1925 (8/8/Ất Sửu), Đấng A-Ă-Â giảng dạy ba ông, vào rằm tháng 8 đó thiết tiệc chay thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và chư vị Cửu Nương đến dự. Đến 14 âm lịch thì Đức Nhàn Aâm Đạo Trưởng giáng cho thơ mời các Ngài họa.
      THI Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân Rượu cúc một bầu trăng gió hứng Non sông dạo khắp lối đem xuân.
      Ông Cao Xuân Lộc liền giáng họa nguyên vận : Sống thác từ xưa đã có chừng, Nơi trần mẫn tính trọn nhơn luân Đò đưa phút chịu vùi ba tấc, Tay trắng phủi rồi một tuổi xuân.
      Bài của Ngài Cao Quỳnh Cư họa như vầy : Cõi thọ là đâu khó độ chừng Aån tàng lội lạcbậc kinh luân, Buổi già ước đặng đem thân gởi, Biển Thánh rán dò lúc tuổi xuân.
Đến ngày 15/8/Ất Sửu (1/9/1925) tại nhà Ngài ở số 134 Bourdais (nay là Calmette, Sài gòn), giữa nhà lập bàn hương án, chưng các hoa thơm và xông trầm trọn ngày. các Ngài mặc quốc phục quì trước bàn hương án cầu nguyện xin các Đấng Tiên Nương đến dự tiệc, lễ bái xong các Ngài ngồi vào bàn tiệc. Bà Nguyễn Thị Hiếu (tức bà Cao Quỳnh Cư) gắp đồ ăn để vào chén cho chín vị và trên bàn thờ Đức Phật Mẫu. Đó là thể pháp tượng trưng cho bí pháp của Đạo Cao Đài, mà hằng năm về sau đến ngày tháng này Tòa Thánh Tây Ninh đều tổ chức lễ Hội Yến Diêu Trì Cung.
Sau đó các Ngài xây bàn, Đấng A-Ă-Â giáng cho bài thi rồi đến Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương mỗi vị đều giáng cho thêm 1 bài (1) và mời ba Ngài làm thi liên ngâm.
      LỤC NƯƠNG : Trót đã mang cái nợ đời. Gánh đời nặng lắm khách trần ơi.
      CAO.Q.CƯ : Oằn vai thần đạo non sông vác, Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.
      PHẠM.C.TẮC : Thương hải tang điền xem lắm lúc Công danh phú quí nhắm trò chơi
      CAO.H.SANG : Ở đời mới hẳn rằng đời khó, Khó một đôi năm dễ khó đời.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(ù Xem Đại Đạo Sử Cương quyển I trang 35)
      LỤC NƯƠNG : Ở thế sao chê tiếng thế buồn Buồn vui hai lẽ lấy chi đong ?
      CAO-Q-CƯ : Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm, Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
      PHẠM-C-TẮC : Chiếc bách dập dồn dòng bích thủy Phồn hoa mờ mệt giấc quỳnh lương
      CAO-H-SANG : Bờ đương chừ đặng phong trần rảnh Quảy gánh thơ đờn dạo bốn phương.
Nhờ tình thân mật đó Lục Nương cho ba vị biết cô Đoàn Ngọc Quế là Thất Nương Diêu Trì Cung.
Đêm 14/9/1925 (29/8/Ất Sửu), khi xây bàn, Đấng A-Ă-Â giáng, ba vị hỏi sao lâu quá không đến. Ngài đáp rằng vì tiết lộ thiên cơ cho ba vị nên bị Ngọc Hư bắt tội. Ba Ngài phải lập hương án giữa trời để chịu tội thay cho Đấng A-Ă-Â. Ngài Cao Thượng Phẩm có làm bài thi đọc trước hương án như vầy :
      Vái van xin quí Cửu Thiên Nương, Tâu với Ngọc Hư rõ ngọn nguồn Vì nghĩa Ă-A mang trọng tội, Nghĩ tình đồng đạo để tình thương.
Đến ngày rằm năm đó Đấng A-Ă-Aâ giáng cho một bài thi :
      THI Một tòa thiên các ngọc làu làu Liên bắc cầu qua nhắp nhóa sao. Vạn trượng then cài ngăn Bắc Đẩu Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào Chư Thần chóa mắt màu thường đổi Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi. Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.
Việc xây bàn của các Ngài lan rộng trong quần chúng kẻ hiếu kỳ đến xem cho biết, người không tin muốn thử coi chân giả. Một phật tử hỏi Đấng A-Ă-Â làm thế nào để phân biệt thiệt giả. Đấng A-Ă-Â nhịp bàn cho thi :
      Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường, Chẳng để mũi gần chẳng biết hương Hiền ngõ rủi sinh thời bạo ngược Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.
Người Phật tử ấy hỏi tiếp : "Làm sao biết được chánh tà?". Đấng A-Ă-Â đáp :
      Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà, Chánh tà hai lẽ đoán sao ra Sao Tiên Phật người trần tục Trần tục muốn thành phải đến ta.
Cũng hôm ấy (14/11/1925) ông Nguyễn Trung Hậu (Sau đắc phong Bảo Pháp) đến tìm hiểu hư thực, được Đấng A-Ă-Â giáng cho thi :
      THẦN văn chất ĐỨC tài cao, Tên tuổi làng thơ đã đứng vào Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt, Gặp thời búa Việt, giục cờ Mao.
Ông Trương Hữu Đức (sau đắc phong Hiên Pháp) cho các bạn thơ cố ý giả ngộ chơi. Thế nên về nhà đem bàn ra một mình đặt tay lên, miệng vái các chơn hồn ứng hiện. Tức khắc có vong linh của lịnh huynh ông giáng cho hai vị thuốc trị ông lành bịnh. Rồi có vị Minh Nghĩa Tiên Ông giáng cho thi :
      THI Minh đức mừng nay đã gặp Thầy, Chẳng còn ao ước cái không hay. Mừng câu Aâu Á càng thêm mặt, Mừng cậu côn đồ đã chịu chay.
Từ đó ông Đức hết sức tin tưởng và ăn chay trường luôn. Còn ông Hậu vì điểm danh đúng bút hiệu nên xin làm đệ tử Đấng A-Ă-Â.
Đến ngày 12-12 năm đó (27/10/Ất Sửu), Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng dạy :
"Mùng 1 tháng 11 này tam vị đạo hữu VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO"
Bà thăng rồi, ba Ngài hội ý vẫn không hiểu cầu đạo là thế nào. Thế nên hôm ba Ngài mới cầu Thất Nương hỏi.
-Thất Nương dạy dùm cầu đạo là gì ?
Thất Nương đáp :
-Không phải phận sự của em, xin hỏi ông A-Ă-Â giáng dạy.
"Ngày 1/11 này (16/12/25) tam vị phải VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO.
Tắm gội cho tinh khiết, ra quì giữa trời cầm chín cây nhang mà vái rằng : ba tôi là
-Cao Quỳnh Cư
-Phạm Công Tắc
-Cao Hoài Sang
Vọng bái Cao Đài Ngọc Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.
Tịnh tâm quỳ đến tàn hết chín cây nhang mới vào, rồi đến nhà (ông) Tý mượn đại ngọc cơ, học cách dùng để Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng.
Thế là việc xây bàn đến đây chấm dứt và việc cầu cơ bắt đầu để khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nghĩa là thời khai nguyên dẫn dắt vào đường Đạo đã cáo chung.
Khi ba Ngài Vọng Thiên cầu đạo, ngoài đường kẻ qua người lại dập dìu, nào xe cộ lượn qua, nào người người đi coi hát về, họ hiếu kỳ DỪNG CHÂN LẠI COI BA Ngài cúng vái ai mà quì ngoài sân. Bỗng đâu có thi sĩ Bồng Dinh (tức Giáo Sỏi) đến vịn cái bàn chỗ ba Ngài quì mà ngâm thi. Mọi người càng đến coi đông hơn. Nhưng các Ngài cũng tâm nguyện, chờ cho 9 cây nhang tàn mới vào nhà, đoạn thiết đàn cầu cơ :
Đấng Cao Đài giáng viết :
Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Oâng Đại Bồ Tát Ma Ha Tát giáo Đạo Nam Phương.
      THI Thiên đàng nhứt thế biến lôi âm Tận độ nhơn sanh thoát tục phàm, Chánh giáo phát khai thiên thế mỹ, Thâu hồi hiệp nhứt đạo tam kỳ. CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ
Các Ngài không thông suốt được bài thi nên thỉnh Đấng A-Ă-Â xin giải nghĩa, được giải như vầy : Ngọc Hoàng Thượng Đế là Trời, viết là dạy rằng : Cao Đài chỉ Nho giáo, Tiên ông chỉ Đạo giáo, Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Thích giáo, giáo đạo Nam Phương là dạy Đạo ở phương Nam. Nghĩa là Trời giáng trần qui Tam giáo Nho Thích Đạo dạy Đạo ở phương Nam".
Vì có nhiều vị chưa vững đức tin đêm mồng 8/11/Ất Sửu (23/12/1925), Lục Nương giáng giải đáp thắc mắc cho các Ngài. Sở dĩ chỉ có Thất Nương, Lục Nương và Bát Nương thường giáng đàn là vì các Tiên Nương khác có nhiệm vụ riêng (1). Sau đó Huệ Mạng Trường Phan (thầy tu núi Bà Đen) giáng :
      1/- Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy Nào dè có đặng buổi hôm nay Gìn lòng tu niệm cho bền chí Đông đảo ngày mai đặng hiệp vầy.
      2/- Tây Ninh tu luyện động Linh Sơn Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn, Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp, Công hầu vương bá dám đâu hơn.
-Xin chư vị gắng tu, thấp thỏi như tôi nhờ trọn tin Trời Phật, còn được ân thưởng Huệ mạng Kim Tiên, huống hồ chơn linh cao trọng như quí vị, nếu chịu tu ngày sau phẩm vị còn cao đến bực nào.
Lời báo tin mai của Huệ Mạng làm, cho các ông nửa mừng nửa sợ, nên đêm sau thiết đàn để thỉnh Đấng A-Ă-Â về giáng dạy. Lục Nương giáng đàn báo phải chỉnh đàn nghiêm để rước Đấng Cao Đài Thượng Đế.
      THI Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền, Vui lòng tu niệm hưởng ân thiên Đạomầu rưới khắp nơi trần thế Ngàn tuổi muôn tên giữa trọn biên. CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ
"Đêm nay, 24 Décembre phải vui mừng vì là ngày Ta xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây (Europe).
"Ta rất vui lòng mà độ đệ tử kính mến ta như vậy. Nhà này (nhà ông Cư) sẽ đầy ơn ta, giờ ngày gần đến đơi lịnh Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính Ta hơn nữa".
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(ù Xem "Công đức Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật")
Nên biết thưở đầu việc xây bàn cầu cơ phần lớn thiết lập ở nhà Ngài Cao Quỳnh Cư. Vì thế, khi đi làm việc về, Ngài Phạm Công Tắc thường ghé luôn ở đây ăn cơm xong rồi cầu cơ thỉnh Tiên. Các Ngài muốn mau biết việc Thượng giới nên đi làm việc chỉ mong mau tối để về thiết đàn.
Cũng đêm ấy, Đức Lý Thái Bạch giáng đàn cho thi :
      Đường trào hạ thế hưởng ma quan, Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn. Chén rượu trăm thi đời vẫn nhắc Non tiên vạn kiếp thế chưa tàn. Một bầu nhựt nguyệt say ngơ ngáo, Đầy túi thơ văn đổ chứa chan Bồng đảo còn mơ khi múa bút, Tả lòng thế sự vẽ giang san. THÁI BẠCH TIÊN TRƯỞNG
Đêm 31/12/1925 (15/11/Ất Sửu) Đấng A-Ă-Â giáng:
Ba con thương Thầy lắm hả ?
Con thấy đặng sự hạ mình của A-Ă-Â như thế nào chưa ? Con thấy thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa ? Người quyền thế lớn nhất như vậy có thể hạ mình bằng A-Ă-Â chăng ?
A-Ă-Â là Thầy, Thầy đến các con thế ấy, con thương Thầy không ?
Sự nhỏ nhẹ của Thất Nương đó, con bằng mảy múng gì chưa ? Học hỏi sự nhỏ nhẹ ấy.
Sự cao kỳ của Lục Nương, con có đặng mảy múng gì chưa ? Học sự cao kỳ ấy.
Sự nhân đức của Thất Nương, con có chút đỉnh gì chưa ? Phải học sự nhân đức của Thất Nương.
Tình nghĩa yêu mến của các con có bằng Bát Nương không ? Phải hocï.
Phải học tình nhân ái, trung tín cứu giúp của Cửu Thiên Nương (tức Đức Phật Mẫu) ba con có đặng như vậy chăng ? Phải học gương.
Sự kính nhượng của ba con bằng Cửu Nương chăng? Phải học.
Hạ ngươn tận diệt, Thầy sai Thần Thánh, Tiên Phật và chính mình Thầy, vì thương chúng sanh cũng hạ mình đến với các con, mượn việc xây bàn đùa giỡn với các con, để các con vui mà học Đạo, hầu khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt chúng sanh"
Tuyên ngữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đến nay mới được khải chúng. Năm 1920, Đấng Thượng Đế đến dạy Đạo ông Ngô Văn Chiêu ở Phú Quốc chỉ xưng là Cao Đài Ngọc Đế. Nhưng các Ngài lúc bấy giờ chưa rõ mối Đạo lớn thế nào và giáo lý ra sao hay lấy giáo lý các tôn giáo đã có.
Thế nên, đêm 2/1/1926 (13/11/Ất Sửu) Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng dạy :
"Cư, Tắc hai con đừng lấy làm việc chơi nghe. Thầy dặn hai con một điều : nhứt nhứt phải đợi lịnh Thầy, chẳng nên lấy tư riêng mà phán đoán nghe.
Phận sự hai con, trách nhiệm hai con Thầy đã định trước, song ngày giờ chưa đến, phải tuân lời Thầy nghe. Từ đây Thầy khởi sự dạy Đạo".
Ngày 2/1/1926 là ngày lịch sử trong khoảng đời tâm linh của Ngài Phạm Công Tắc và Cao Quỳnh Cư, vì từ đây Đức Chí Tôn mới thực sự dạy Đạo cho Ngài. Vì vậy các Ngài gặp điều gì khó khăn thì triệu thỉnh các Đấng Thiêng liêng. Đêm mồng 4 tháng đó, Đức Chí Tôn giáng cơ quở rằng :
"Thầy đã nói A-Ă-Â là Thầy, còn cung Diêu Trì là cung Diêu Trì, các Thánh đều có quả. Ấy là những Đấng Thầy sai đến dạy dỗ mấy con, đừng triệu thường vì mỗi vị đều có phận sự riêng.
Chư Tiên và chư Thánh đều có quả, song đừng triệu về mà chơi, kỳ dư có điều gì học hỏi".
Đến ngày 9/1/1926 (25/11/Ất Sửu), Đấng Thượng Đế giáng cơ dạy các Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến đường Quai Testard (Chợ Lớn) độ ông Lê Văn Trung, Ngài Phạm Công Tắc có vẻ không bằng lòng vì :
"Buổi nọ ông Lê Văn Trung làm Thượng Nghị Viện Hội Đồng Thượng Nghị viện đời Pháp lớn lắm. Ông là người Nam làm đến bực đó thôi. Ông là người quá sức đời, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm (tức ông Cao Quỳnh Cư) không hạp chút nào. Tôi kỵ hơn hết, nhứt định không làm điều đó được. Một ông quan trong thời mất nước không thể tả hết.
"Khi chúng tôi ôm cái cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ. Mục đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi. Khi vô tới nhà thú thật Ngài rằng : "Chúng tôi được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà anh Phò loan cho Đức Chí tôn dạy Đạo". Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi (1). Lo sắp đặt bàn ghế, sửa soạn buổi phò loan, rồi bắt ông nhập môn.
"Trong nhà có 1 người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12 tuổi, hai cha con kiếm được cơ đâu không biết, vái rồi cầu cơ. Khi phò loan thằng nhỏ ngũ, ông thì thức. Cơ chạy hoài ông hỏi thi Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai người biết với nhau mà thôi. Từ đó ông mới tin có Đức Chí Tôn". (Theo bài thuyết Đạo đêm Giáp Ngọ của Đức Phạm Hộ Pháp)
Dù đã theo học Đạo với Thầy Trời, nhưng tấm lòng thương dân yêu nước vẫn chưa nguôi. Khi chánh quyền Pháp đàn áp các phần tử ái quốc, dòng máu cách mạng của Ngài lại bừng sôi. Bà Thất Nương giáng cơ đêm 27/1/1926 (13/12/Ất Sửu) khuyên:
"Em xin quý anh coi lại đời là thế nào ? Bông phù dung sớm còn tối mất còn hơn kiếp con người. Vì dù nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà lúc sống còn có cái sắc, chớ đời người sanh ra chỉ để khổ mà thôi, dù sống trăm tuổi chưa 1 điều đắc chí, rồi chết. Cái đời này đúng là 1 khổ hải.
"Em xin quí anh coi sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn nỡ bỏ đi. Em tiếc dùm đó thôi.
"Đã vào đường chánh, cứ do đó, theo đó bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng".
~~~~~~~~~~~~~~~
(ùVì vào 15/5/Ất Sửu (6/6/1927), tại Chợ Gạo (Chợ Lớn) có thiết đàn thỉnh Tiên, ông Nguyễn Hữu Đắc cố đưa ông Lê văn Trung đến hầu đàn nhiều lần. Khi ông Trung ngộ Đạo thì Chợ gạo bị bế. Nghĩa là dù ai có cầu các Đấng vẫn không giáng).
Từ lúc chấm dứt việc xây bàn thay vào phò cơ thì hai Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc làm đồng tử, nên tất cả những bài từ trước của các Đấng giáng cho đều do cặp nguyên thủy này viết ra. Vì vậy, Ngài Cao Hoài Sang thấy mình hơi thừa, rồi lần lần ít chịu đi hầu đàn. Các Ngài mới xin với Đấng Cao Đài để lời dạy bảo. Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng rằng :
"Nó thật thà, vả lại nó còn mang xác phàm. Ai dưới thế này đặng trọn vẹn, các con chỉ cho Thầy coi?"
Các Ngài đã thọ làm môn đệ Đấng Cao Đài đã lâu nhưng chưa thờ vì chưa biết cách thức thờ thế nào, nên mới xin cách dạy để thờ, thì Đấng Cao Đài Thượng đế dạy "Đến Chiêu xem cách thức nó thờ Thầy, bảo nó hiệp một với các con"
Vâng lịnh Đấng Cao Đài, các Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đến nhà ông Ngô văn Chiêu ở số 110 đường Bonard (nay là Lê Lợi, Sài gòn) để quan sát cách thờ. Ông Ngô Văn Chiêu thờ Thầy rất kỹ, tận trên cao và ngay chính giữa nhà, thật kín đáo. Có ai đến chơi nhà, không chỉ khó mà biết được vì ông là người rất dè dặt không phải là bạn tu thì không bao giờ chỉ dẫn".
Vào năm 1921 lúc làm chủ quận Phú Quốc, một buổi sáng lối 8 giờ tối, Đức Chí tôn đã hiện con mắt (Thiên nhãn) nhiều lần và buộc ông phải thờ. Năm 1924, ông đổi về Sài Gòn thì cũng tiếp tục thờ Thầy (Thiên nhãn) và tự đơn như trước. Kịp đến khi Đức Chí Tôn chuyển cơ phổ độ cho nhóm Ngài Phạm Công Tắc thì các Ngài đến đây để quan sát cách thờ phượng về tuyền bá trong đạo hữu.
Vì nhà Ngài Lê Văn Trung rộng rãi, ngày 15/12/1Ất Sửu, Ngài thượng Thánh tượng Thiên Nhãn có mời các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Vương Quan Kỳ, Đoàn Văn Bản, Nguyễn Văn Hoài, Trương Hửu Đức, Võ Văn Sang, Lê Văn Giảng, Lý Trọng Quí, Lê Thế Vĩnh … Đấng Cao Đài giáng cơ dạy :
-Thầy vui thấy các con thuận hòa cùng nhau. Thầy muốn các con như vậy hoài. Ấy là lễ hiến cho Thầy rất trang trọng.
      Chẳng quản đồng tông mới một nhà Cùng nhau một Đạo tức một cha Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi Dạy lẫn cho nhau một chữ hòa. CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
Đêm 30/12/Ất Sửu (12/2/1926) quan phủ Ngô văn Chiêu đi với hai Ngài Cư , Tắc đến nhà một vị đặng mừng xuân. Đến nhà ai thì cặp cơ Cư -Tắc phò loan, trước hết là nhà ông phán Võ Văn Sang, sau cùng là Ngài Lê Văn Trung. Mỗi người đều được một bài tứ tuyệt mà bài của Ngài Cao Quỳnh Cư như vầy :
      Sắp út thương hơn cũng thế thường Cái yêu cái dạy ấy là thương Thương không nghiêm trị là thương dối Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.
Khuya mồng 1 Tết, Đấng Cao Đài giáng dạy : "Hôm nay là ngày trọng đại Thầy chính thức khai Đại Đạo tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt 92 ức nguyên nhân đang bị đọa trầm luân :
      Phụng gáy non Nam Đạo trổ mòi Trổ mòi nhân vật bốn phương trời, Trời Aâu, biển Á chờ thay sắc, Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi. CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ
Đó là ngày Khai Đạo Cao Đài về cơ Phổ hóa.
Qua đến mồng 9/1 nhằm vía Đức Chí Tôn, ông Vương Quan Kỳ thiết đàn tại nhà riêng ở số 80 đường Lagrandière (nay là đường Gia Long). Đức Thượng Đế giáng cơ :
      Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa, Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà. Chung hiệp rán vun nền đạo đức Bền lòng son sắc đến cùng ta.
Quan phủ Ngô Văn Chiêu xin Đức Thượng Đế lấy tên mấy người đệ tử mà cho bài thi. Đức Thượng Đế thuận cho :
      CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh, BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành. HẬU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh, Quờn Minh Mân đáo thủ đài danh.
12 chữ lớn trong ba câu đầu là tên của 13 vị môn đệ đầu tiên, vì hai ông Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang điểm chung một tên.
Tùy theo Đạo nhưng các ông còn ngỡ ngàng trước cách lễ bái, đạo phục, nhất là cách thờ Thiên Nhãn. Ngày 12/1/Bính Dần (24/2/1926), Đấng Cao Đài giáng dạy :
"Thập Nhị khai thiên là Thầy, chúa tể cả càn khôn thế giái, nắm trọn Thập nhị Thời thần trong tay. Số 12 là số riêng của Thầy.
"Chưa phải hồi con biết đặng tại sao phải vẽ Thiên Nhãn mà thờ Thầy. Song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh :
    Nhãn thị chủ tâm, Lưỡng quan chủ tể Quang thị thần Thần thị thiên Thiên giã ngã giã
    "Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này, Thầy cho Thần hiệp tinh khí đặng hiệp đủ tam bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh".
Lần lần khách bàng quang hiểu được chủ đích của Cao Đài giáo là qui Tam giáo, hiệp Ngũ chi, người ta trích điểm lập chi Đạo mới cho thêm khó khăn phiền toái. Đức Cao Đài giáng dạy ;
"Vốn từ trước Thầy lập Ngũ chi Đại Đạo là : Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo. Tùy theo phong hóa của nhơn loại mà gây chánh giáo, là trước càn vô đắc khán khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại chỉ có hành Đạo nơi tư phương mình mà thôi.
"Còn nay thì nhơn loại đã hợp đồng, càn khôn dĩ tận thức thì lại bị phần nhiều Đạo, mà nhơn loại bị nghịch lẫn nhau nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lạ nữa, Thầy giao Thánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà lập ra phàm giáo".
Ông Vương Quan Kỳ bạch :
-Bạch Thầy, anh cả (ông Ngô Văn Chiêu) bảo Thầy giao cho ảnh làm chủ mối Đạo dạy dỗ chư môn đệ, mà ảnh không chịu tiếp xúc với chúng con, thì làm sao ?
"Chẳng ai dưới thế này được phép nói thế quyền Thầy mà trị phần hồn nhơn loại được.
Ai có hạnh lớn mới mong được Thầy ban thưởng ngôi vị. Chiêu có công tu, lại là môn đệ trước tiên của Thầy. Thầy định ban chức Giáo tông cho nó, nhưng nó không giữ lời nguyền với Thầy lại sợ tà quyền mà xua đuổi môn đệ của Thầy, chẳng còn xứng đáng làm anh cả của các con".
Các Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc … và chư môn đệ đồng quì xuống xin tội cho Ngô Văn Chiêu.
Đến ngày 25/4/1926 (15/3/Bính Dần) thì thiết lễ Thiên phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, Thầy dạy :
"Cư nghe dặn : con bảo Tắc tắm rửa sạch sẽ, xông trầm hương cho nó, biểu nó lựa một bộ đồ tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón, cười …
"Đáng lẽ nó phải sắm khôi giáp giống như hát bội mà mắc nó nghèo nên Thầy không bảo. Bắt nó lên đứng trên ngó mặt vô ngay ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải điều đấp mặt nó lại, biểu Đức Hậu đứng gần, kẻo nó xuất hồn té tội nghiệp.
"Lịch, con viết một lá bùa Gián Ma xử cho Tắc cầm. Hai con mặc đồ thường, chừng nào Thầy triệu Ngũ lôi và Hộ Pháp về rồi. Thầy biểu mặc Thiên phục vô mới mặc, thế mới đặng".
Hôm ấy, có các vị được thọ phong là Ngài Phạm Công Tắc thọ phong Hộ Pháp, Ngài Cao Quỳnh Cư thọ phong Thượng Phẩm, Ngài Lê Văn Trung thọ phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ngài Lê Văn Lịch thọ phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
Các vị sau đây được phong vị để phò cơ :
Đức, Hậu phong Tiên Đạo phò cơ Đạo sĩ
Cư phong Tá cơ Tiên hạc Đạo sĩ
Tắc phong Hộ giá Tiên đồng Tá Cơ Đạo sĩ.
"Hai ông Thượng Phẩm và Hộ Pháp hợp thành một cặp đồng tử chấp Cơ Phong Thánh, truyền giáo, lập Pháp chánh truyền và Tân luật, tức là Hiến chương của nền Đạo hiện giờ.
"Chúng ta phải nhìn nhận đầu công của hai ông này vào bực nhứt. Trước hết và trên hết, Đức Chí tôn mượn tay và thần lực của hai ông mà lập thành Đại Đạo cho đến ngày nay. Nếu không có bàn tay xây dựng của hai ông thì:
-Đâu có Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
-Đâu có chức sắc Thiên phong nam nữ
-Đâu có Hội Thánh và các cơ quan trong Đạo
-Đâu có Pháp chánh truyền và Tân luật
-Đâu có đại nghiệp hiện giờ cho nhân sanh thừa hưởng"
(theo Đạo sử cơ bút của Trương Hiến Pháp)
Ngoài cặp cơ Cư - Tắc còn có cặp cơ : Sang - Diêu, Hậu - Đức, Nghĩa - Tràng, Tươi - Chương, Kim - Đãi, Mai - Nguyên, Mạnh - Phước, Thân - Vĩnh.
Cầu cơ là phò loan gồm có hai vị đồng tử, ngồi hai bên cái giỏ cơ, tay cầm vào miệng cơ. Một lát sau điển các Đấng giáng rồi Ngọc cơ tự động mà viết ra. Chính vì đó, người ta có thể nhờ người bên trái hay bên phải viết ra. Thế nên, cơ bút có thiệt mà cũng có giả. Người trong cuộc mới hiểu rõ được việc đó.
Dưới đây là danh tánh các Đấng giáng cơ giúp việc khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, từ năm Ất Sửu đến khi Ngài Thượng Phẩm được đắc phong.
1/- Xuất Bộ Tinh Quang, 2/- A-Ă-Â, 3/- Cửu Vị Tiên Nương, 4/- Cửu Thiên Huyền Nữ, 5/- Thiên Hậu, 6/- Liên Huệ Tiên, 7/- Đại Tiến Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, 8/- Nhàn Aâm Đạo Trưởng, 9/- Quan Thánh Đế Quân, 10/- Thần Sơn Quan Diệu Võ Tiên ông, 11/- Đỗ Mục Tiên, 12/- Minh Nguyệt Tiên ông, 13/- Bách Nhẫn Đại Tiên, 14/- Thánh Pierre, 15/- Huệ Mạng Trường Phan, 16/- Tả quân Lê Văn Duyệt, 17/- Quí, Cao, 18/- Thổ Địa Tài Thần, 19/- Lý Thái Bạch, 20/- Ông Môn, 21/- Cao Xuân Lộc, 22/- Cao Quỳnh Tuân, 23/- Cao Hoài Aân.
Vì có nhiều cặp cơ, hơn nữa Đàn Cầu Kho không cung ứng cho hoàn cảnh, nên có thêm 5 đàn nữa là Chợ Lớn, Tân Kim (Cần Giuộc), Lộc Giang, Thủ Đức và Tân Định mà cặp cơ Cư - Tắc phò loan ở đây. Chính đàn này đã thâu được ông Lê Thiện Phước (sau đắc phong Bảo Thế).
Để việc phổ độ chúng sanh khỏi bị ngăn trở, các Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc … tất cả 28 vị đứng tên đưa tờ Khai Tịch Đạo lên Thống Đốc Nam Kỳ là ông Le Fol (nhằm triều Bảo Đại) vào ngày 7/10/1926. vì nằm trong chế độ cai trị của Pháp bấy giờ, Tờ Khai Tịch Đạo coi như thông báo chánh thức rồi hành giáo và truyền giáo chớ không đợi phúc văn của Pháp. Thế nên, không có văn kiện nào trả lời hoặc cho phép về Tờ Khai trên cả.

**************
Nơi tu tịnh của Đức Cao Thượng Phẩm gọi là Thảo Xá Hiền Cung, rút từ cơ của Bà Thất Nương giáng cho năm 1925, sau khi Ngài bị cơn khảo của Tư Mắt (xem chữ Hán nơi trang 51).
Thảo xá tuỳ nhơn ngu muội bần cùng nghinh nhập thất.
Hiền cung trạch khách thông minh phú quý cấm lai môn.
Nhà này vốn của cụ Cao Quỳnh Tuân (đắc vị Xuất Bộ Tinh Quân), thân sinh của Đức CTP. Sau khi dời chùa Từ Lâm Tự về chùa Mới thì Đức CTP chọn nơi đây làm Tịnh Thất. Sau đó hiến làm Thánh Thất châu đạo Tây Ninh. Một phần vẫn dùng làm TXHC. Đầu năm 1992, vì tu sửa nới rộng Thánh Thất Thị xã nên TXHC được tách rời thành một ngôi thờ riêng biệt.

Chương III

XÂY DỰNG NỀN TẢNG ĐẠO
(1926-1928)

Sau khi lập tờ Khai Tịch Đạo với chánh phủ Pháp, thì việc phổ độ các tỉnh bắt đầu từ tháng chín Bính Dần. Ngài và quí Ngài Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc đi phổ độ trong các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ (nay là Phong Dinh), Sóc Trăng, Bạc Liêu (nay là Ba Xuyên), Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá (nay là Kiên Giang). Nhóm thứ hai truyền đạo các tỉnh Tiền Giang. Nhóm thứ ba các tỉnh miền Đông.
Đêm 14 rạng 15 tháng 10 năm Bính Dần (18/11/1926) là đêm chánh thức khai Đạo Cao Đài tại Gò Kén (Tây Ninh) và lễ khánh thành Thánh Thất Từ Lâm đầu tiên của nền Đại Đạo. Đêm hôm ấy vì quá đông, nên cuộc lễ bớt phần trang nghiêm. Khi cầu cơ Đức Chí Tôn chỉ để ít lời quở trách rồi thăng. Thừa dịp tà quái nhập vào 1 nam và nữ bổn đạo mà quấy phá. Họ mạo xưng là Tề Thiên Đại Thánh và Quân Aâm Bồ Tát.
Vịn vào việc đó, một số đồ đệ của Như Nhãn xúi đòi chùa lại. Hội Thánh phải hẹn trong ba tháng (tức đến ngày 15/1/Đinh Mão) sẽ trả chùa lại. Dù vậy, ngay đêm khai Đạo, Thầy vẫn giáng cơ lập tịch đạo nữ phái.
      Hương tâm nhứt phiến cận càn khôn Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn. Nhứt niệm Quan Aâm thùy bảo mạng, Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.
Đêm 16/10 (20/11/1926) thì lập Pháp Chánh Truyền (tịch đạo Nam phái cho mồng 9/8/1926 tại Vĩnh Nguyên Tự)
      Thanh Đạo tâm khai thất ức niên, Thọ như địa huyền thạnh hòa thiên. Vô hư qui phục nhơn sanh khí, Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
Đạo dưới thời Lý Giáo Tông thì Nam phái lấy chữ Thanh, Nữ lấy chữ Tâm. Khi nào hết tịch đạo thì Đấng Chí Tôn sẽ giáng cơ cho tịch đạo khác. Lớn nhỏ, trước sau nhờ chữ tịch đạo này mà phân biệt.
Vào ngày 2/11/Bính Dần (6/12/1926) Đức Chí Tôn ra lịnh hội chức sắc thành lập Tân luật. Để tiếp cho trọn bộ Pháp Chánh Truyền. Đến ngày 13/2/1927 (12/1/Đinh Mão), Đức Chí Tôn giáng cơ thành lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
Sở dĩ, việc thành lập các cơ chế Đạo có nhiều khoảng trống thời gian vì cặp cơ Cư -Tắc còn bận làm việc tại Sài gòn, ngày nghỉ cùng nhau lên xe Ngài Lê Văn Trung mới về Gò Kén hành pháp.
Tuy đáo hẹn trả chùa mà vẫn chưa tìm được đất mới nên chư vị chức sắc được Đức Lý dạy rằng : "mai này chư hiền hữu lên đường dây thép (tức đường route haute) nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ (hồi đó chưa có đường vào trường Nữ Trung Học) coi như hiền hữu có thấy đặng chăng ?"
Qua ngày sau quý vị lên xe đi tìm đất, khi chạy tới khoảng cửa số 2 ngày nay, cạnh góc ngã ba có cây vừng, Đức Cao Thượng Phẩm ngó thấy trên cây này có 1 tấm bảng treo đề tên Cao Văn Điện, một người bạn học của Ngài thuở nhỏ. Đức Cao Thượng Phẩm nói với chư vị chức sắc rằng :
-Để tôi đi tìm ông Cao Văn Điện, nhờ chỉ dẫn giùm chủ đất này.
Ông Điện mới cho biết đất này của ông Aspar, Kiểm lâm người Pháp. Đêm hôm ấy chư vị cầu Đức Lý thỉnh giái Đức Lý dạy : "Phải đó tưởng chư hiền hữu không thấy. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh địa, sâu hơn 30 thước như con sông, giữa trung tâm đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn, làm như 6 con rồng đoanh châu. Nguồn đất ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là lục long phò ẩn. Ngay miếng đất ấy có 3 đầu: một đầu ra giếng mạch Ao hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia".
Về khuôn viên Tòa Thánh tạm thì Đức Lý dạy : "Thánh Thất tạm thời phải cất ngay miếng đất trống. Còn Hiệp Thiên Đài phải trước Thánh Thất tạm. Đạo hữu phải khai phá đám rừng, cách miếng đất trống chừng ba thước rưỡi, đóng 1 cây nọc, đo Hiệp Thiên Đài như vầy, ngoài Bàu Cà Na đo vào chừng 50 thước đóng một cây nọc. Ấy là khuôn viên Tòa Thánh".
Lúc khởi công để phá rừng, người Miên, Tà Mun xuống cả ngàn người làm công quả. Viên Chánh Tham Biện người Pháp nghi ngờ, nên mời Đức Cao Thượng Phẩm ra Tòa bố (tức Tòa hành chánh), hỏi rằng :
-Ông làm cái gì mà đông đảo như vậy ?
Đức Cao Thượng Phẩm trả lời :
-Tôi mua miếng đất đó đặng trồng cao su.
-Trồng mấy mẫu ?
-Tôi trồng hết sở đất tôi mua, phá tới đâu tôi trồng tới đó.
Vì lúc đó việc trồng cao su đang thịnh hành và là một nguồn lợi lớn cho Pháp, nên họ làm lơ. Các cây cao su còn lại nơi vùng Bá Huê Viên hiện nay là di tích của Đức Ngài.
Đến ngày 20/2 năm đó (23/3/1927) mới thỉnh Thánh Tượng, Chư Phật về đất mới thuộc làng Long Thành. Khó khăn nhất là việc di cốt Phật Tổ cỡi ngựa Càn Trắc. Đức Cao Thượng Phẩm phải tập trung nhiều người để đưa cốt lên chiếc xe bò, kết lại. Viên Chánh Tham Biện cho một toán lính mặc đồ đen núp ngoài mương ruộng chờ có gì khác thường là bắn. Khi rõ thật sự thỉnh cốt Phật thì họ rút lui êm.
Đức Ngài đứng trên xe bò vịn cốt Phật Tổ, khởi hành lúc 18 giờ đến 2 giờ sáng mới đến Thánh Thất tạm. Khi đến khoảng cửa Hòa viện ngày nay, bị một cái mương lớn quá, Đức Ngài phải khó nhọc tìm thế lót ván để xe qua, thì đã mệt lữ, Đức Ngài ném mình xuống đống lá khô trong rừng mà nghỉ. tất cả chức sắc cũng nằm xuống đó. Bà Nguyễn Thị Hiếu điều động nữ phái khiêng cháo và nước đến cho mọi người ăn để lấy lại sức. Sau đó, cốt Phật Tổ được an vị giữa hai cụm rừng gần cây ba nhánh (tức chỗ an vị hiện nay).
Đức Ngài tiếp tục xây cất Tòa Thánh tạm, nào Hậu điện, Đông lang, Tây lang, trường học, Trù phòng. Tất cả đều bằng tranh rồi đào giếng nước, tức mấy cái giếng gần Tòa Nội chánh hiện nay.
Biết được chủ đích việc làm của Đức Ngài, Viên Chánh Tham Biện làm khó đủ điều. Họ buộc phài rào xung quanh Tòa Thánh lại, không ai được vào lễ bái. Trong chánh điện chỉ có Lễ sanh Thượng Xường Thanh hành lễ mà thôi. Ai muốn cúng thì phải quỳ ở ngoài mà lạy vô bửu điện. Họ còn làm tình làm tội Đức Ngài, gọi ra Tòa bố ngày một. vì lúc này Đức Ngài đã bỏ sở mà phế thân hành đạo trước nhất. Dù vậy Đức Ngài vẫn một lòng giữ đạo, yêu sanh chúng. Nhận thấy công phá rừng đau yếu, Đức Ngài cầu nguyện Đức Chí Tôn ký pháp nước âm dương tạo thành cam lồ thủy trị bịnh cho mọi người. Tuy bị ngăn cản không có 1 nơi tôn nghiêm để hành pháp các Thổ nhơn đem ve chai để trên sạp cầu xin nước Thánh. Lạ một điều chỉ có một thứ nước mà trị bá bịnh. Nhờ sự huyền diệu này , tiếng đồn vang xa, các làng xã, nhơn sanh tấp nập kéo tới làm công quả, thỉnh nước Thánh càng đông giúp cho việc phá rừng tạo tổ đình càng được dễ dàng.
Có lẽ vì chuyện này, một số báo Pháp ngữ xuyên tạc là Cao Đài Tây Ninh lấy nước suối ở núi Điện Bà về bán. Rồi người này chuyền miệng người kia "tam sao nhất bổn" đem đến sự khó khăn hành đạo của Đức Ngài về sau.

Chương IV

MÙA PHÁP NẠN
(1928-1929)

Đời hành đạo của Đức Ngài tuy có kham khổ nhọc nhằn vì phải xây dựng nền tảng đầu tiên cho nền Tân Tôn giáo, nhưng cũng được an ủi tinh thần qua nét mặt tươi vui của chư tín hữu nhất là số tín đồ theo đạo ngày càng đông.
Bổng đâu đất bằng sóng dậy. Vào tháng 3 năm mậu Thìn một nhóm người từ Thủ Đức do ông Tư Mắt tức Nguyễn Phát Trước dẫn dụ về Tòa Thánh đặt điều nước lã khuấy nên hồ. Họ đuổi Đức Ngài ra khỏi Tòa Thánh trong 24 giờ, nếu không đi cột trong rừng mà bắn. Ngài quá uất ức nhưng không thể giải bày cho những người bạo hành rõ được nỗi oan khiên của mình. Đức Ngài quá buồn, kẻ lo đạo không mấy người, phá đạo lại đông., thật đúng câu "Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng" Đức Ngài ngọa bịnh phải về thảo xá Hiền cung (tức Thánh Thất Tây Ninh ngày nay). Nhớ ngày nào, Đức Ngài nguyện làm con tế vật cho Đức Chí Tôn sai khiến, mà trò đời quá cay nghiệt để lỡ bước đường hành đạo. Đức Ngài thống khổ mà nảy ra bài tự thán như sau :
      THI Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh, Bằng địa sóng xao khiến rập rình Tà mị phàm rung rinh chất Thánh Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng Nay Bửu đình hiu quạnh lụy nhìn Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.
Thông cảm được nỗi oan khiên của Đức Ngài, Đức Cao Thượng Sanh đã họa bài thi trên như vầy :
      HỌA VẬN Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh, Hiu quạnh hôm nay gió rập rình Trước ngõ lơ thơ vài đạo hữu Sau hiên meo mốc mấy pho kinh Rừng xơ vẻ thắm chim không đỗ Cảnh lợt màu tươi khách biếng nhìn Xây dựng là ai, ai phá hoại Sụt sùi để bước khó làm thinh.
Thất Nương Diêu Trì Cung cũng giáng cho Ngài bài thi để an ủi :
      THI Nghĩ giận mà ra bắt nực cười Nhờ ai an vị lại an nơi Trăm năm chưa giữ bền thân sống, Một kiếp đã gây lắm tội đời, Phẩm Phật ngôi Tiên an dẫn nẻo, Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời, Nhắn lời nói với phường đen bạc, Đến cửa thiêng liêng ngó mặt trời.
Nỗi oan tình đó, không những Diêu Trì Cung rõ thấu mà thi phàm mắt thịt của toàn đạo bấy giờ ai cũng biết. Mọi việc là do bà Nguyễn Thị Hiếu (do bà kể lại lúc sanh tiền). Bà thấy những người công quả bị chói nước, ăn không tiêu, bà có bổ thuốc tiêu để bán lại cho ngừơi làm công quả phá rừng. Những kẻ ganh tị cho bà làm tiền chư tín hữu.
Việc thứ hai, một buổi sáng trên cầu ván nơi Thảo xá Hiền cung bà để một số hàng bông rau cải, để đem ra chợ bán. Một ít người đi qua thấy không biết cho là hàng bông của chùa.
Việc thứ ba, bà có lấy một số chai nước tương rỗng đem về Thảo xá Hiền cung để đựng nước cho Đức Cao Thượng Phẩm uống vì sợ chói nước (Tây Ninh thuở trước nước rất độc). Người ta cho bà lấy chai còn nước tương.
Ba việc ấy khiến cho kẻ kém vị tha làm đơn thưa lên Hội Thánh. Việc này chưa ngã ngũ thì một vài người đưa tin này về Sài Gòn, thêu dệt thêm này nọ. Rồi họ kéo lên Thủ Đức xúm lập vi bằng. Trong đó có ông Nguyễn Phát Trước tính nóng nảy, nhứt quyết đưa một số người về Tòa Thánh vấn nạn. Hậu quả của việc bạo hành đó, ông Trước sau khi về Sài gòn, một thời gian bị đèn Manchon phựt xăng cháy, người ông bị thiêu.
Nguyễn Phát Trước tự Tư Mắt mà các tay giang hồ thời bấy giờ quen gọi là anh Tư Đại Ca. khi ông được tin nhà ông Đốc học Đoàn Văn Bản có đàn cơ thỉnh tiên ông đến xem thực giả. Chính Đàn Cầu Kho này đã thâu nhận ông là môn đệ của Đức Cao Đài (1926).
Một hôm ông viết một cái khải (sớ không ai được đọc) vái rồi đốt tại Thánh Thất Cầu Kho (nhà ông Bản). Thình lình có ông Trần Văn Tạ (sau đắc phong Hộ Đàn Pháp Quân) một nhân viên chính quyền bước vào. Ông Tư Mắt sợ cơ về trả lời bức mật khải thì ông nguy tính mạng. Vì trong cái khải ấy ông xin giết De la Chevrotière, Thượng nghị viện đồng thời với ông Lê Văn Trung. Điều lo lắng của ông không xảy ra vì cơ không đáp mà ông Trần Văn Tạ đã là đạo hữu đến hầu đàn chớ không phải với tư cách mật thám.
Tính khí ông ngang tàng, là trùm du đãng vùng Sài gòn - Chợ Lớn, chính quyền Pháp cũng nể vì ông. Cũng có điều lạ, ông rất sợ Đức Chí Tôn sau khi theo đạo ông lập Thánh Thất Chợ Lớn tại nhà ông, trên lầu thờ Thầy, dưới dùng làm nhà ở và tiếp khách. Đạo hữu đến cúng kiến tại Thánh Thất của ông rất đông, có lẽ họ dựa vào ông để được che chở khỏi bị các tên du đảng bắt nạt hay một lý do huyền nhiệm nào khác. Sau khi khai đạo ở Gò Kén (15-10-Bính Dần) Ông được ân phong Lễ sanh Mắt Mục Thanh (phái Thái). Ông vâng mệnh Ngài Thượng Đầu Sư lập Thánh Thất trước Lý Minh Đài. Tại đây, quyển "Đại Thừa Chơn Giáo" ra đời (1936), làm nền tảng cơ vô vi gốc từ CĐ phổ độ mà ra.
Vì tính khí ngang tàng mà nhiều lần ông đã đề nghị với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt với sự hậu thuẫn của Đạo nổi lên chống Pháp và chiếm phủ Toàn quyền. Vì là một bậc chân tu, Ngài Đầu Sư từ chối. Ông Tư Mắt tuyên bố hành động một mình, sẽ giết toàn quyền Alexandre Varenne (1925-1928). Với tính nóng nảy, thiếu kế hoạch và trì chí, rốt cuộc mọi lời tuyên bố của ông đều trôi qua.
Nghe tin đồn Ngài Cao Quỳnh Cư lạm dụng, ông vốn nóng nảy bồng bột vội về Tây Ninh bạo hành. Hậu quả cách đó không lâu Đức Chí Tôn đem ông về. Cái chết của ông thật thê thảm. Lúc bấy giờ ở Chợ Lớn các nhà sang trọng dùng đèn Manchon treo giữa nhà nhưng cái bơm hơi chuyền xuống đất, ông lại nằm gần cái bơm hơi này, quấn chăn. Không rõ vì lẽ nào, cái bơm phát nổ, đèn phựt cháy luồn xuống cái bơm bắt lửa qua cháy cái khăn. Hạ bộ của ông bị phỏng nặng hỏa nhập, nên vừa đến bệnh viện thì ông chết (1929).
Ngài Thượng Đầu Sư có đến phúng điếu và chia buồn cùng bà Nguyễn Phát Trước và có nói câu "Thầy đem em Tư về sớm là cái hay cho cơ Đạo". Ngay đêm hôm đó, đồng tửTrần Văn Hoằng (con ông Trần Văn Tạ) chấp bút. Thái Mục Thanh nhập đàn, tỏ vẻ hối tiếc những việc làm đã qua và ông khuyên gia đình nên tu niệm.
Nhằm tạo một giải pháp danh dự cho Đức Cao Thượng Phẩm, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt đề nghị bỏ thăm kín việc ở lại Tòa Thánh hay về Thảo xá Hiền cung của Đức Cao Thượng Phẩm. Trong 45 chức sắc nam nữ có mặt : 27 thăm chống ở lại, 15 thăm thuận và 3 thăm trắng. Đức Hộ Pháp tuyên bố : "Dù 3 thăm trắng nhập vào 15 thăm thuận vẫn ít hơn 27 thăm chống. Vậy Anh Tư nên về TXHC". Chính Đức Hộ Pháp cũng đi an dưỡng nơi Thánh Thất Thủ Đức, đàn cơ 26/2 Mậu Thìn (1928), Đức Chí Tôn giao cho Thượng Đầu Sư chưởng quản Tòa Thánh dàn xếp cơ khảo đạo vì Tư Mắt là người do Ngài Thượng phổ độ nên rất kính trọng Ngài.
Nỗi oan khiên của Đức Cao Thượng Phẩm được đồng đạo đến thăm và chia xẻ nỗi buồn. Trong số đó có Phồi Sư Thượng Tông Thanh - người Trung Hoa tặng Đức Ngài hai bức khảm xà cừ có chạm bài thơ tứ tuyệt. Trong bài thơ có ba chữ "Độc huyên nghiên" (hoa mai đơn độc) hợp với tâm sự nên Đức Cao Thượng Phẩm cho treo tại TXHC. Nội dung như sau :
      Nguyên văn Chúng hoa dao lạc độc huyền nghiên Chiêm đoán phương tình nội tiểu viên Sơ ảo hoành tà thiểu thanh đạm Âm hương phù động nguyệt hoàng hôn.
      Dịch thơ Ngàn hoa rơi, đóa hoa đẹp còn vương Lặng ngắm vườn con tình ngát hương Bóng nhạt khẽ mơn làn nước lạt Hương thầm khơi nhẹ trăng chiều hôm.
Bài thơ này của Lâm Bô (967-1028) đời Tống, nguyên bản là bài Bát cú. Phối sư Tông chỉ chọn 4 câu đầu có sửa 5 chữ "Chiếm tận phong tình hưởng" và "thanh thiển" ra "thanh đạm" (xem nguyên bản trang 4)
Một hôm, Đức Ngài cùng Đức Phạm Hộ Pháp phò loan được Đức Chí Tôn dạy : "Nếu con không rét thì có yếu như vậy đâu. Con ráng nhịn cơm chừng ba bốn bữa nữa đặng Thầy dùng huyền diệu pháp mà trị cho con thiệt mạnh, lần này mới dứt bịnh, miễn đừng ăn món chi nó phạt tì thì thôi". (Đức Ngài đau bao tử).
Một đàn cơ đêm kế, Đức Chí Tôn cho biết bịnh của Đức Ngài là cơ thử thách : "Phải, con có bịnh vậy đặng trừ bớt thử thách của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đương lo lập vị của mỗi đứa."
Thầy thấy con bịnh phổi và bao tử, nên cho huyền diệu pháp cho con khỏi ăn đôi lúc để thiệt mạnh. Hai cơ khí ấy vốn là hình chất, nên khó lấy huyền diệu mà trị nó theo lẽ thường Thầy buộc ngưng phận sự nó đặng tiếp dưỡng hườn nguyên.
Không ăn mà sống. Trong không khí tuy phàm nhãn không thấy đặng. Không khí chứa đầy vật chất tiếp dưỡng (Matières nutritives) của xác trần vì nhờ nó biến hóa chúng sanh đặng.
Vật chất phải tiêu, mà khí pháp vẫn còn, tỷ như đá núi xay ra bột làm ciment mà khí phách đá vẫn còn giữ tánh cứng của nó, trộn nước cho đóng khô lại thì nó hườn như đá thường. Thảo mộc dầu phải chặt rã ra thì khí phách cũng vậy. Con tưởng xác chôn rồi, trong xác ấy cho hườn nguyên khí phách mà hiệp lại cùng không khí chăng ?
Các khí con hớp hằng ngày ấy thì như bữa cơm con ăn đó vậy. Thầy chỉ sửa cơ khí phàm các con, nhứt là bao tử cho nó có huyền diệu pháp mà tiếp cho đặng cái khí phách ra làm vật thực nuôi nấng lấy mình. Vì vậy, nhiều đứa phàm xác vẫn còn mà đắc Đạo tại thế, tuyệt cốc xác thân chẳng hại chút nào"
Bịnh của Đức Ngài là tâm bịnh, từ khi về Thảo xá Hiền cung thân thể ngày càng mòn mỏi, sắc diện âu sầu. "Sự nhận thức có lẽ Ngài bị bịnh thất chí, vì hành đạo không được y theo sở nguyện nền đạo trong buổi sơ khai, lo truyền giáo phổ độ chúng sanh, mà Ngài lại an ổn tại tư gia nên Ngài bực tức vì Đạo vì Thầy mà lo họ ngăn trở bước đường hành Đạo. (Theo Đạo sử xây bàn của Bà Nguyễn Đầu Sư).
Thiết tưởng, người có đủ đức tin nơi Chí Tôn, thì dầu có sản nghiệp triệu phú cũng không thể ngồi an hưởng riêng cho được. Huống chi Đức Cao Thượng Phẩm là môn đệ tin Đức Chí Tôn Đức Phật Mẫu đầu tiên.
Khi Đức Chí Tôn giáng trần khai Đạo, cũng giáng huyền diệu cơ bút thâu môn đệ, dạy thờ Thiên Nhãn trước hết cũng tại nhà Ngài (tức sau khi quan sát cách thờ phượng nhà ông Ngô Văn Chiêu), nên lòng thành kính Đạo thật đầy đủ. Các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ dạy Đạo, thì Đức Cao Thượng Phẩm cùng Đức Hộ Pháp phò loan. Hai Ngài lãnh hội giáo lý nhiều hơn hết.
Đến khi gặp cơn khảo đảo, bị nhơn sanh bạc đãi buộc phải lui về tư gia, thì dầu đủ nghị lực tinh thần cũng phải buồn lòng thất chí, nên lâm bịnh lương y khó phương điều trị"
Vì lẽ ấy mà Hội Thánh lập một Tịnh Thất nơi cụm rừng gần Báo Aân Từ ngày nay, để rước Đức Ngài về tịnh luyện hầu di dưỡng tinh thần qua cơn khảo đảo. Bảy giờ sáng ngày 15/10/Mậu Thìn (1928) một đoàn xe hơi gồm chư chức sắc Đại Thiên phong đến Thảo Xá rước Đức Ngài về nhập Tịnh Thất.
Vào tịnh thất một thời gian, bịnh trạng không thuyên giảm lại biếng ăn, mất ngủ. Thế nên 18 giờ ngày 26 tháng 12 năm đó, bà Giáo sư Hương Hiếu và Giáo Hữu Thượng Trí Thanh kêu một cổ xe ngựa đưa Ngài trở lại Thảo xá Hiền cung, vì Ngài không muốn cho Hội Thánh hay.
Đến 11 giờ ngày 1-3 Kỷ Tị (1929) Đức Ngài cho mời Đức Phạm Hộ Pháp, Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu (tức bào huynh của Ngài), Bà Giáo sư Hương Hiếu, Giáo hữu Thiện Trí Thanh, Giáo hữu Thượng Kỳ Thanh, Lễ sanh Thượng Ngươn Thanh, đức Ngài nhìn Đức Phạm Hộ Pháp mà trối rằng :
-Nay Qua về chầu Đức Chí Tôn, em ở lại hiệp với chư chức sắc chung lo nền Đạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự.
Kế day qua nói với người bạn đời của Ngài :
-Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như sự còn.
Đức Ngài nói xong tuôn hai hàng nước mắt rồi xuất hồn êm ái, nét mặt cũng như người đang ngủ. Có điều lạ thường là lời trối của Ngài có hàng có chấm cũng như lúc mạnh khỏe. Chư chức sắc có mặt đều bùi ngùi cảm động.

Chương V

ĐẮC VỊ KIM TIÊN
(1-3-Kỷ Tỵ)

Thi thể của Đức Ngài được liệm trong liên đài hình bát quái, quàng tại Thảo xá trong ba ngày. Chư chức sắc và đạo hữu nam nữ đến tế lễ rất đông.
Trong lúc tang lễ, chư chức sắc Hiệp Thiên Đài cầu cơ, Đức Ngài giáng đàn tỏ vẻ vui mừng, được bái mạng Đức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh và Đức Phật Mẫu nơi Diêu Trì Cung. Thiên đình đã nhận công tròn quả mãn trong buổi đầu khai nguyên của nền Đại Đạo của Ngài. Đức Ngài cho một bài thi tứ tuyệt.
      THI CAO thanh miệng thế mặc chê khen THƯỢNG trí màn chi tiếng thấp hèn, PHẨM cũ ngôi xưa dầu rõ giá, Từ bi tập tánh được thường quen.
Ngày 3-3-Kỷ Tỵ (1929), Hội Thánh rước liên đài Đức Ngài về Tòa Thánh, đông đủ chư chức sắc từ Đức Hộ Pháp, Thượng Sanh, chư vị Thập Nhị Thời Quân đến chức việc đạo hữu đi thỉnh vong dài đặc. Thuyền bát nhã đến Đền Thánh mà đoạn chót còn ở Thảo xá đường dài trên 4 cây số.
Đến ngày 8 lúc 8 giờ thì đi lên đài nhập bửu tháp. Đại diện chức sắc Hiệp Thiên Đài đọc ai điếu, đến Ngài Thượng Đầu Sư Cửu Trùng Đài trạng tỏ công nghiệp, sau hết là điếu văn tỏ lòng cảm mến của Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, đại diện Nữ phái.
Khi liên đài ra bửu tháp, Đức Ngài có giáng cho hai bài thi mà ngay nay dùng để thày dâng lễ.
      THI Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay, Thung dung nhờ núp bóng Cao Đài, Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ, Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say. Phi thị mặc đời nơi quán tục, An nhàn rảnh dạ khách thiên thai. Ngậm cười nêu quạt chờ sanh chúng, Biển khổ ngày qua đếm một ngày.
      Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng, Cõi Thiêng mừng đặng dứt dây oan. Nợ trần đã phủi lòng son sắt, Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng. Cỗi tấm chơn thành lòa nhựt nguyệt. Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san. Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phi, Để mắt xanh coi nước khải hoàn.
Vào đêm 7-3-Kỷ Tỵ (16-4-1929) Đức Chí Tôn giáng cơ dạy :
"Thầy đã nói rõ : Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con, nhưng hại thay, vì biếng nhác, các con không đọc Thánh ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.
Đạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại Thiêng liêng chi vị, thì ai đem các chơn hồn các con vào cửa Thiên giùm đó con. Lại nữa các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay mặt cho Thầy nơi thế này về phần đời còn phần Đạo cũng có đôi đứa con mới đặng.
Con đừng phiền mà trách mấy anh con, nhứt là đừng nói rằng : Chúng nó giết Thượng Phẩm nghe. Vì Thiên cơ đã định, các con biết chi mà hờn trách lẫn nhau.
Con phải xây cái tháp của Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải day mặt về đông, giống như ngó vào điện mà hầu Thầy vậy. Song ba từng phải lợp ngói như nóc chùa của Đường nhơn vậy.
Đừng làm như tháp của Bảo Đạo, vì hai đức phẩm vị khác nhau. Chung quanh Bát Quái Đài phải làm như hình có cột tại chính giữa tháp phải có lỗ cho nhựt quang rọi vào tới liên đài".
Xem thế việc qui thiên của Đức Ngài là thiên thơ dĩ định. Tuy hành Đạo ngắn ngủi có 4 năm nhưng công nghiệp Đức Ngài đáng nêu vào Đạo sử cho người sau noi dấu.
1/- Nhà Đức Ngài là nơi phát tích xây bàn để tiếp nhận những thiên điệp đầu tiên của Bạch Ngọc Kinh. Thế nên, vào đêm 25-12-1925 Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế phán rằng : "Nhà này (nhà Ngài) sẽ đầy ơn Ta, giờ ngày gần đến đợi lịnh. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa".
Lễ Hội Yến đầu tiên, lập đàn cầu đạo, giai đoạn xây bàn cũng ở tại nhà Đức Ngài.
2/- Đức Ngài phế thân hành Đạo trước nhứt và vững niềm tin hơn cả. Chính Đức Phạm Hộ Pháp đã thố lộ trong bài thuyết Đạo đêm 17-8-Quí Tỵ như vầy : "Bần Đạo không có đức tin gì hết, nghe nói Tiên giáng đi theo nghe thi chơi". Còn Đức Cao Thượng Sanh thường ít đi hầu đàn vì không tin. Một hôm xây bàn, Ngài Cao Quỳnh Diêu thưa với chơn linh cụ Cao Hoài Aân (thân sinh Ngài Cao Hoài Sang) rằng : "Anh đề thi mà khuyên dạy nó (ông Diêu là chú ông Sang) và lấy vận voi, mòi, còi, roi, thoi của bài Tứ Thứ qui Tàu mà họa lại". Chơn linh cụ Aân cho thi :
      THI Thuyền khơi gió ngược khá nương voi, Vận thới hầu nên đã thấy mòi. Vườn cúc hôm nay muôn cụm nở, Rừng tòng buổi trước một cây còi. Hồng nương dặm gió chi sờn cánh, Ngựa ruỗi đường hòa khá nhọc roi. Nín nằm chờ qua cơn bỉ cực Thìn lòng chứng có lượn đôi thoi.
3/- Kiểu mẫu áo mão đầu tiên làm tại nhà Đức Ngài do bà Nữ Đầu sư Hương Hiếu (bạn đời của Ngài cắt may).
4/- Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung cũng nhập môn theo Đạo tại nhà Ngài vào 11-1-1926.
5/- Đức Chí Tôn mượn đôi tay của Ngài chấp nhang để trục thần của Ngài Phạm Công Tắc ra để chơn linh Hộ Pháp nhập vào đêm 13/5/Bính Dần tại nhà Ngài Lê Văn Trung.
6/- Cất Tòa Thánh (tạm) đầu tiên bằng tranh, di cốt Phật Tổ và an vị nơi Đại Đồng Xã.
7/- Bàn tay Đức Ngài đã dựng các cơ chế Đạo, Đức Ngài qui là cơ Phong Thánh đã gãy.
"Cái cơ Phong Thánh, cơ lập thánh cơ truyền giáo Ngài đã đem theo, nên ngày giờ này, thảng có cơ Phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Đạo nâng loan có Ngài trợ lực, chớ cây cơ Phong Thánh hiển nhiên giờ phút này không còn. Cái tiếc của Bần Đạo có hay chăng là ở điều đó". (Theo lời thuyết minh của Đức Phạm Hộ Pháp ngày 1-3-Canh Ngọ, 1930).
Trong bài ai điếu của Đức Hộ Pháp đọc trong buổi chung qui của Đức Cao Thựong Phẩm đã nói lên tấm lòng thương tiếc ấy qua bài thi.
      THI Thượng Phẩm ôi, hỡi anh ôi Chưa xong trách nhiệm vội về Trời Bốn năm công quả vun nền Đạo Mấy đoạn chông gai chịu nước đời Ngọn bút Thần cơ Trời nở đoạn Nắm xương Thánh chất lấp chôn vùi Mực hòa huyết lệ đề câu điếu, Thượng Phẩm ôi, hỡi anh ôi.
8/- Nhìn tượng Bát Tiên, ta thấy có một vị cầm Long Tu Phiến (quạt) đó là Hớn Chung Ly ngươn linh của Đức Cao Thượng Phẩm . Đức Hộ Pháp giải thích tại sao thờ Đức Cao Thượng Phẩm tại Báo Aân Từ như sau : "Nguyên căn của Hớn Võ Đế là Hớn Chung Ly giáng sanh thành lập quốc gia. Kỳ Hạ ngươn này, Đức Cao Thượng Phẩm cũng là chơn linh của Hớn Chung Ly tái thế lập thành quốc Đạo nên tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm thuận hơn".
Đến năm 1945 Đức Ngài có giáng cho một bài thơ ý tứ súc tích :
      Đường mây sẵn lối gặp may duyên, Nặng gánh xa thơ sửa mối giềng Anh tuấn đất gìn nung khí phách, Uy linh trời giữ tạc đài liên. Hồn về nước cũ đời nương thế Hạc lại tùng xưa đức lập quyền. Đảnh Việt chờ qua cơn bão tố Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.
Top of Page

PHỤ TRANG


Ngày mùng 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929)
Đại Đạo - Năm thứ tư

Bia kỷ niệm Đức Cao Sĩ Thượng Phẩm
(Cao Quỳnh Cư)

- Cao Quân người Nam Kỳ, xuất thân tại tỉnh Tây Ninh nối dòng trâm anh, vốn nhà thi lễ, phẩm hạnh mực thước, tánh chất siêng năng, học hỏi thông minh,thành danh khi tuổi trẻ
Lúc ở thế xử tròn nhơn Đạo, mãng ra vào trong bển hoạn rừng danh hơn mười năm dư đã an phận sự.
Vừa may gặp hội Long Huê Hoằng khai Đại Đạo khiến cho Cao Quân hiệp cùng lương hữu tập phò cơ chấp bút cầu Tiên Phật giáng Đàn hầu ngâm thi vịnh phú.
May thay ! nhờ lượng từ bi xuống tay tế độ, dùng chơn thần thanh bạch, cầm bút chấp cơ, dạy chúng sanh qui chánh cải tà, khuyên tu niệm thoát vòng mạt kiếp.
Bởi Đấng Chí Tôn giáng thế xưng hiệu Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bộ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương.
Vậy nên Cao Quân hiệp cùng chư Đạo Hữu phụng thừa Thiên Mạng khắp miền Hậu Giang phổ độ chúng sanh, nền Đại Đạo mới gây nên từ đó.
Ngày rằm tháng 3 năm Bính Dần Đức Chí Tôn lại gia phong Cao Quân chức Thượng Phẩm trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Khôn xiết kể công lao của Cao Quân đã lo dìu dắt chúng sanh còn phải vun trồng nền Đạo giữ tròn phận sự, mưa nắng chẳng nài, lo Đạo không nhàm, tuyết sương chẳng quản.
Ôhô ! Thiên cơ tiền định người dễ thấu đâu, những ngỡ tay rường cột sum vầy cùng bạn tác, chung lo đấp nền Đạo giữa trời Nam,nào hay đâu số mạng bốn tuần dư vâng Thánh chỉ trở về kinh Bạch Ngọc.
Thương thay! tiếc thay !
Song nghĩ lại, tuy thể phách tách rời trần thế mà tinh thần còn lai láng như xưa, muôn năm theo độ rỗi chúng sanh, ngàn thuở vẫn mặc phò Đại Đạo.
Ôi ! nhớ tiếng thốt giọng cười khôn vùi mạch thảm nghĩ công lao sự khổ khó lấp cơn sầu.
Sanh chúng ghi tạc ơn sâu, đồng một dạ khắc mấy câu kỷ niệm
      Ngày 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929) Hội Thánh Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài Chư Đạo Hữu đồng kỷ niệm.

* * *

VĂN TẾ
(Điệu Văn Lưu Thuỷ)

Tiểu sử
Cao Thượng Phẩm

Than ôi ! Miền Đông Á từ đời Bàn Cổ, xưa đã bao phen Đạo Thánh dẫn nhơn sanh.
Đất Việt Nam khai những thuở Hồng Bàng, nay mới gặp lúc thuyền linh đưa bến khổ.
Cho hay rằng : Sanh là ký,tử lại là qui, nhưng phải biết mạng tuy yểu, mà danh ấy thọ.
Nhớ Cao Thượng Phẩm xưa, tư chất ôn lương, tánh tình hoà huởn, nhà phiệt duyệt lưu truyền nơi thế thượng. Tỉnh Tây Ninh lớn nhỏ thảy đều thương.
Trí thông minh còn roi dấu thơ hương, miền Bến Nghé trẻ già nào chẳng rõ.
Trải mấy mươi năm cùng thế sự, chí nam nhi đủ sức vẫy vùng
Quanh theo lối trong gia, phần em trẻ nhiều lời khuyên nhủ
Cùng lân lý hay thương người thất thủ, hằng ra tay tế độ bạc tiền
Với mẹ cha thường để tấc lòng thành, gắng hết sức đền ơn nhủ bộ.
Đạo Thánh mở phú một tay truyền bá,lãnh mạng Trời bố hoá khắp hoàn cầu.
Giọt sương gieo vì trăm họ khát khao, vưng Thánh chỉ ruới ban ân võ lộ, hiến thân cho Đạo son sắc một lòng, nương bút thủ cơ tuyết sương mấy độ, đã nhiều cơn tân khổ chẳng quản đến tình nhà, dìu sanh linh từ thành thị chí thôn quê, dư mấy lúc gian truân, lần lừa theo mạch Đạo, dẫn bầu bạn vạch đường về cội cũ.
Toàn trong sáu tỉnh để tiếng ngợi khen, khắp cả muôn dân riêng Phổ Độ. Trước từng trải Biên Hoà, Sài Gòn, Gia Định, mới lần qua cửa Tiểu, đã mấy buổi nắng mưa cam chịu. Đấng Tạo Đoan soi tỏ rõ tấm kiên trinh, rồi lại từ Mỹ Tho, Sa Đéc, Long Hồ, mà thẳng tới Bạc Liêu, biết bao phen sương tuyết dãi dầu, ơn Thượng Phẩm đáng ghi vào nơi phế phủ.
Phần du tiên gẫm cũng tại Thiên cơ, người khuất bóng thiếu tay rường trụ.
Nhớ những khi :
Vun trồng cội Đạo, lấy chí trượng phu, tẩy sạch lâm truyền, dựng Toà Thánh tổ, lo xây nền lập Điện, đem hết lòng tu bổ, trót mấy thu tùng trải mảnh hình hài, lo trẩy gốc ven đường, dâng trọn tấm nhiệt thành, bao nhiêu tuổi đủ đền ơn thuỷ thổ.
Hỡi ôi !
Chuông reo cảnh hạc, bóng khuất non Tây, khách giục rừng Tòng, người về quê cũ, thương vì đoàn thê tử, mẹ nam con bắc, vợ dựa cửa trông chồng, xem cáng chạnh nỗi, đầu lòng thương ôm chịu chớ biết sao !
Ngảnh lại, bóng tang du cha khuất, mẹ còn già ngồi lên khóc trẻ, nghĩ cũng lạ thường, thất chữ hiếu phải cam là vậy đó. Nhưng …nhưng cũng nghĩ rằng tình chồng vợ cũng đủ dạ yêu thương, nghĩa mẹ con cũng đã dày công báo bổ..
Bởi vậy cho nên :
Vì công lao khổ, ơn huệ thưởng ban, hứng cảnh tiêu diêu, sắc son đã rõ. Miền Cực Lạc xin hương hồn Cao Thượng Phẩm chứng lòng đơn cho các bạn tại tiền, trước Linh toà cả chức sắc Hiệp Thiên, dâng Tam Bửu ngõ đền ơn tri ngộ.
    Ngày 8-3-1929 Chức sắc Hiệp Thiên Đài

* * *

ĐIẾU
CAO THƯỢNG PHẨM

Quý ông, Quý bà, chư Đạo hữu lưỡng phái,
Ngày mùng một tháng này, vì phận sự tôi phải đi Nha Mân, qua mùng 2 tôi đi Vũng Liêm cùng Hiền Hữu Ngọc Trang Thanh.
Lúc thượng lộ lòng tôi buồn bực không kể xiết, tôi thầm hỏi, mình đi lo việc Đạo cớ sao không được vui như mấy lần khác.
Sáu giờ rưỡi chiều tới Thánh Thất Vũng Liêm có Hiền Hữu Thái Thơ Thanh, Thượng Giảng Thanh, Thượng Lân Thanh, hành lễ vừa rồi chạy ra liền nói:
THƯỢNG PHẨM DÉCÉDÉ (chết)
Nghe qua dường như sấm nổ, người dầu gan sắt dạ đồng, nghe tin cũng bắt động lòng thương xót, huống chi tôi cùng Đức Cao Thượng Phẩm trong mấy năm dư cùng nhau keo sơn gắn chặt, thọ Thánh chỉ của Đức Chí Tôn phổ thông Đại Đạo Tam Kỳ.
Nay người ly trần, cỡi hạc về quê, kẻ nhơn thế còn lo độ chúng, khiến cho tôi nghĩ nhiều bậc công hầu vương bá tài bực biết bao mà Trời không ngó cũng chác sầu tây. Nầy một đấng hiền lương Đạo Đức, chừng Trời kêu đến phải mau hồi cựu vị. Ấy chỉ rõ quyền Chí Tôn rất lớn, vô cực vô đại mà thương hại cho những người vô đạo đức, không suy xét lời Thánh “Vạn ban đô thị mạng, bán điểm bất vô nhân”.
Ấy chỉ rõ Thiên cơ.
Thời kỳ này Thầy lập Đạo vô vi hồi chưa khai Đạo nhơn sanh còn phàm tục, nên mượn xác phàm của tín đồ đặng độ rỗi chúng sanh, nay Đạo thành có người lập đặng chí thánh, Thượng Phẩm là Đạo phải trở lại Thiêng Liêng chi vị, nơi trần thế đây mà làm cho người tâm thành trí vẹn, may chút nữa phải mỏi lòng đạo đức .
Than ôi ! một năm qua rồi, nhìn Thánh Địa như cảnh sầu bi, xem nền Đạo giống nhà vô chủ.
Kìa cây sầu lá ủ, nọ cỏ úa sương gieo.
Thiên ý muốn một điều là phải ăn năn sám hối, ai có lỗi mau mau tự cải, lập từ bi nhịn nhục nhau thì Đạo mới hoà.
Thầy chỉ rõ Thiên cơ đã định, đều cũng kết cuộc tương thân, tương ái.
Tuy Thượng Phẩm về cùng Thầy là nơi phước hạnh không chi sánh kịp, Non chiều phụng gáy, động Thánh qui chầu, là nơi u nhàn cực lạc, song nhìn còn tại thế .
Một Từ Huyên bóng xế trăng lờ, lại gặp cuộc mẹ già ngồi khóc trẻ, nhớ con trẻ biết bao tình thắm thiết vợ hiền lương rẻ bạn giữa đường, cuộc gia thế trăm bề quạnh quẽ.
Không xiết nỗi thương.
Ôi ! chiếc nhạn kêu thu cũng là một cảnh sầu bi nơi trầm luân khổ hải này, một con thơ còn bơ vơ nơi đất khách, sau dầu bước đặng thang mây, vinh qui bái tổ, ôm cái tháp này khóc than, chớ cha hiền đà cỡi hạc qui tiên.
Mẹ goá con côi, trăm bề eo hẹp…ấy giương nâu sồng chập chồng trên một nền nhà đạo đức.
Đạo lập thành, người chí thánh đâu nỡ ngó lơ .
Hỡi ơi !!! thương thay !!!
    Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt

* * *

    Toà Thánh Tây Ninh Le 16 Avril 1929 Ngày 7 tháng 3 Kỷ Tỵ (giờ Tý)

Thầy các con,
Mỹ Ngọc ! kêu mấy anh con, kêu nữ phái vì chúng nó vái ở dưới tội nghiệp. Thầy đã nói rõ rằng : Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con nhưng mà hại thay ! vì biếng nhác các con không đọc Thánh Ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.
Tắc ! con có nhớ Thầy nói với các con rằng : Đạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại Thiêng Liêng chi vị, thì ai đem các chơn hồn các con vào cửa Thiên giùm đó con, lại nữa các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh thay mặt cho Thầy nơi thế này về phần Đời còn phần Đạo cũng có đôi đứa con mới đặng cho, cười …
Con đừng phiền mà trách mấy anh con, nhứt là đừng nói rằng : chúng nó giết Thượng Phẩm nghe, vì Thiên cơ đã định các con chi mà hờn trách lẫn nhau.
Thơ ! con phải xây cái tháp của Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải day mặt về Đông, giống như ngó vàoĐiện mà hầu Thầy vậy. Song, ba từng phải lợp ngói như nóc Chùa của Đường Nhơn vậy nghe.
Đừng làm như cái tháp của Bảo Đạo, vì hai đứa phẩm vị khác nhau, chung quanh bát quái, phải làm như hình có cột tại chính giữa tháp (Chính giữa tháp trên nóc có làm mặt kiếng nghĩa là làm cái bầu có để mặt kiếng đặng cho nhựt quang giọi tới Liên Đài, phải làm cái bầu cho lớn đặng để mặt kiếng lớn mới được.) phải có lỗ cho nhựt quang giọi tới Liên Đài.
Các con sẽ bị Thái Bạch quở phạt liệu lấy mà sửa mình, phải tuỳ theo lịnh dạy của nó, đặng nó giảm nộ chút ít nghe.
Thầy thăng.

* * *

    Le 18 Avril 2929 (Ngày 9 tháng 3 Kỷ Tỵ)

LÝ GIÁO TÔNG

Chào chư Hiền Hữu.
Hộ Pháp ! Hiền Hữu nói cùng chư Chức sắc Cửu Trùng Đài rằng : Lão có gặp Thượng Phẩm trước Linh Tiêu Điện, nhưng Người mắc lo kiến diện, nên chưa nói chi đặng với Lão hết, vậy đợi vài ba tuần nữa Lão sẽ phán định.
Hương Thanh ! Hiền Muội đặng lên nghe Lão dạy mà thôi, Lão đợi, chào Hiền Muội.
Thượng Phẩm xin tha thứ lỗi của nữ phái nhưng Lão chẳng trọn nhận.
Lão phạt cả Chức Sắc nữ phái một tuần cấm phòng, còn Hiền Muội thì Lão biếm quỡ vì không lo dạy dỗ điều đình, song cho thăng lên Chánh Phối Sư cho có quyền sửa trị nữ phái, nhưng mà buộc còn phải tùng lịnh Đầu Sư.
Thấy thân thảm cảnh của Hiền Muội Hương Hiếu, Lão để lời chia buổn sớt thảm cùng Hiền Muội đó.
Cái sự hằng sống chẳng phải tại thế này, xin Hiền Muội khá nhớ.
Thăng

* * *

    Toà Thánh Tây Ninh, Le 18-4-1929 (9-3-Kỷ Tỵ)

THẦY Các con …..cười…
Ậy ! Cũng tại Thầy mà các con lộn xộn cùng nhau nữa há ?
Cười ….Thơ ! Con cũng phải mà Bính cũng phải, lỗi ấy nơi Thầy.
Bính ! Chớ chi con lấy năm lần chín thì con đã trúng rồi đó, con lại sợ Thằng … Sang đứng cận đường, song cũng còn xa đó con không hề gì.
Hai con muốn đem vào cây ba nhánh một chút nữa càng tốt, nhưng đã lỡ rồi cứ để vậy.
Tương ! Thầy dặn con như có thế ngày mùng 8 tháng tới về Toà Thánh Thầy dạy việc nghe.
Lịch, con từ đây phải ở Toà Thánh nghe.
Thơ ! Phải cầu Thái Bạch nhứt là phải có Chức sắc Cửu Trùng Đài cho nó phán dạy nghe con.
Thăng.

* * *

    THẢO XÁ HIỀN CUNG Ngày 22 tháng 10 Kỷ Tỵ (21-11-1929)

Thầy các con
Diêu ! Biểu mẹ con đứng dậy, Thầy lấy làm đau dớn. Thầy thấy con chịu khổ hạnh vì Thầy
Hiếu ! con đã nhiều phen khóc lóc, Thầy thê thảm muôn phần song thấy thiên cơ đã định, ngày hội hiệp con mới hiểu đặng mà đem dạ thương Thầy. Con ôi ! Cái tình thâm xác thịt là thế nào con định thử tình Thiêng Liêng ra bao nả ? Thầy chỉ đợi các con mà các con chẳng nhớ đến, Thầy vì nóng lòng gặp nhau nên mỗi phen đặng thế Thầy tức cấp đem về, con đã rõ thấy cõi trần này biết bao khổ não đày đoạ các con. Thầy đến rước các con cũng bởi thấy khổ mà cầm lòng không đặng. Vậy con Hiếu ! con gắng suy nghĩ lời Thầy mà giải lòng phiền muộn, hầu lo thủ hiếu cho tròn, phận mẹ già ác xế đầu non, con nhớ đến chồng con lo báo bổ.
Diêu ! con lo giải khuây mẹ con, chi chi cũng có Thầy giúp sức, con nên gần gủi với em con cho thường, vì nó đã cầu nguyện Thầy như vậy.
Tắc cũng vậy nghe ; đừng xao lãng tình đời mới ra người quán chúng, tập nhỏ nhẹ chị em chìu bụng, nên lấy mình làm thế Đạo anh, như gặp con đói khó rách lành,giữ trọn nghĩa để danh lưu hậu thế.
Diêu ! con đã đặng lời châu ngọc của Thầy gắng lo liệu với em giúp nó đặng hoàn toàn trách nhiệm.
Tắc ! con khá nhớ rằng : Đạo đức Thầy dạy dỗ từ thử đủ sức phục người, con chỉ liệu phương hay mà định đoạt, Thầy chỉ cầu con để dạ thương yêu chúng nó kẻo tội nghiệp. Con cũng nên giảm bớt tánh cang trường, lấy lòng từ bi mà dạy dỗ nghe con.
Hiếu ! thằng An nó về Thầy không hay chi hết. Con ôi ! muốn đi thì đi, muốn về thì về Thầy không phương cản đặng, kệ kiếp nó. Thầy ban ơn cho các con.
Thăng

* * *

    Phò loan Năm Kỷ Tỵ (1929) HỘ PHÁP - VĂN PHÁP

Cao Thượng Phẩm
Em chào anh lớn, Tám và Nghĩa
Em đến đây ngày nay là bạn của anh Lớn và hai em, chớ không phải với danh Thượng Phẩm. Em lấy làm mừng cho anh Lớn ngày nay đã hiểu rõ Thánh ý về làm chủ Toà Thánh, chớ chi buổi trước anh tính đặng như vậy thì nền Đạo đâu đến chinh nghiêng và em chắc không đến đổi phạm lịnh mà đắc tội cùng Thầy.
Em xin nói rõ song anh Lớn chớ phiền, vì mọi sự cũng do Thiên cơ tiền định. Anh có lúc nghe lời anh Ngọc mà nghi hoặc bụng em, làm cho em bị khảo duyệt mà kỳ trung Anh đặng phải; còn anh Ngọc (Ngọc Lịch Nguyệt) lại bị tội tình cơ mà bị quyền Thiên khiển cái phẩm vị cao trọng, anh Ngọc không rõ giá thì mất vị đã đành nhưng nhờ công lao khai Đạo, em cũng nỡ ngồi ngó cho đành, nên đượng liệu phương cầu rổi; anh cũng nên thừa dịp răn he ảnh cho biết ăn năn chừa cải. Xin anh đừng tưởng lầm như em buổi tại thế rằng : Đạo do nơi Anh Ngọc, muôn việc tại Thầy. Anh hỏi thằng Tám (Hộ Pháp) thì biết, em đã dâng xin Đức Lý Giáo Tông ban luật lịnh cho Anh đủ quyền tuyển chọn Chức Sắc, vậy anh cũng nên để ý dè dặt cho lắm mới trừ diệt đặng những kẻ phá Đạo. Em tưởng Pháp Chánh Truyền dễ thế ban hành sự cao thượng, Đạo chỉ do nơi đó, Thầy thì từ bi đòi phen dung dưỡng, làm cho kẻ Đạo Đức chịu khổ hạnh trăm bề, nhưng em đã đặng lời hứa với Thầy rằng : Từ đây để trọn quyền cho Đức Lý Giáo Tông định đoạt.
Anh Lớn cũng nên hiệp ý cùng thằng Tám đặng hành chánh y lịnh dạy của Ngài.
Anh cũng nên để trọn quyền hành sự cho Chánh Phối Sư đặng nhẹ bớt cái phần trách nhậm nặng nề đi, đặng anh lo nhiều điều cao thượng của Đạo hơn nữa , anh nên đem chị về cho thuận thánh ý Thầy và bớt lo điều gia sự.
Mấy vị Thiên Phong vô lực, nhứt là sự ngộ mà nhiều kẻ khác nữa, Đức Lý Giáo Tông sẽ giáng cơ định đoạt. Xin anh Lớn chớ lo, những kẻ phàm tội giải ra Toà Tam Giáo thì Ngài cũng sẽ quyết định. Anh Ngọc lúc nầy nếu biết mình cũng nên ẩn nhẫn đợi đôi lúc nữa sẽ hay miễn đừng gây tội nữa.
Tám ! Từ đây em nên nghe lời và bớt tánh nóng nảy đặng giữ phẩm hạnh nghe
Anh Lớn hỏi chi ?
Anh Cả trả lời rằng : Qua muốn lo lập Phước Thiện Đường để nuôi mấy người đàn bà goá thủ tiết lo tu mà nghèo, lập như nhà kín (Ermite) của Gia Tô.
Thầy đã tính trước, bằng chẳng vậy phái nữ không tu, em tưởng đẹp lòng Thầy lắm.
Anh lo đặng Học Đường nữa càng tốt, em tưởng dường này thì bổn Đạo ắt đặng ngày ngày nâng cao thêm nữa.
Em rất mừng
Thăng.

* * *

    Năm Canh Ngọ (1930)

CAO THƯỢNG PHẨM

Chào Anh Ba, em Tám, chị Tư, cô Tư và mấy đứa nhỏ.
Cười …lâu ngày về người này vái hỏi sự này người kia vái hỏi sự khác, vậy Bần Đạo nói tắt lại rằng bất kỳ là việc gì hễ tâm định thì Thần có ứng thì Thầy giáng, vậy thì lựa điều chi nên và lành thì làm còn điều chi hư và dữ thì chừa.
Sóc ! Bần Đạo nhiều phen trông mong săn sóc dạy khuyên mọi kẻ, thấy làm trúng Thánh ý thì mừng, còn đôi phen dạy một đường lại làm một ngã gây tội thêm thì buồn mà biết liệu sao cho cùng tột, đặng phần này mất phần kia thế thường phải vậy.
Cô Tư, mấy anh, mấy chị, mấy em, mấy cháu và cô đã đặng một phen Bần Đạo giáng thế giao tình, ngày nay mới đặng hiểu nhau, thân mật cùng nhau, cái tình cảnh ấy là giềng Thiêng Liêng cột chặt nghĩa nhau,Bần Đạo tuy sanh thiêng liêng chi vị, nếu kẻ thường khó mà gần đặng mà nay Bần Đạo vì thọ ân nhau mới tận tâm phò hộ ấy vậy Bần Đạo kiếm phương trả nghĩa thì cả thảy cũng nên liệu bề thủ nghĩa.
Bần Đạo ngày này năm rồi chịu đau thảm khó khăn cùng tột, cái đau đớn ấy vẫn còn trong chơn linh Bần Đạo. Cô Tư có nhớ đêm nay là đêm Bần Đạo nằm trên một cái xe đi chầm chậm trong nhà tịnh về hay chăng hử ?
Bần Đạo nhắn lời nhắc đến, hôm nay đã toại chí thung dung chọc chi thêm đau dạ, Bần Đạo có ý nói rằng mảnh thân phàm xác thịt chẳng mùi vị chi cả nên khó ngừa lòng, lấy tình thâm làm của báu.
Tám khóc chi mà (Tám Hoa khóc) .
Hộ Pháp ! em đã đặng lời Thầy sở cậy, xin em lấy dạ từ bi mà cứu độ, vì trong phần phạm tội kẻ ưng thì ít, kẻ toan thì nhiều, rồi đây em sẽ thấy rõ, rán dằn lòng. Qua không ép em, tự em quan soát.
Anh Ba ! Xin rán làm thế nào cho xứng phận kẻo tội nghiệp nghe, cái địa vị mình phải ra cao trọng mới thoát tay thế khảo, xin rán hiểu.
Thăng

* * *

LỜI THUYẾT MINH CỦA ĐỨC HỘ PHÁP

Trong dịp lễ kỷ niệm Đức Cao Thượng Phẩm, ngày mùng 1 tháng 3 năm Canh Ngọ (1930)
Mỗi một năm ngày Vía của Đức Cao Thượng Phẩm, Bần Đạo lấy làm vui thấy con cái của Đức Chí Tôn nam cũng vậy nữ cũng vậy, trọn tâm yêu ái, nhứt là cái mừng của Bần Đạo hơn hết là ngày Vía của Ngài cả con cái của Chí Tôn còn gìn giữ và thương yêu ấy như buổi sanh tiền kia vậy.
Sự thật, từ cổ chí kim, Bần Đạo tưởng không có nền Tôn Giáo nào mà được hưởng một đặc ân thiêng liêng của Đức Chí Tôn như nền Đạo Cao Đài, Bần Đạo đoán lại những sứ mạng thiêng liêng của Ngài, những đặc sứ sai đến thế này đặng thay thế hình ảnh của Ngài hầu chia đau sớt khổ cùng con cái khổ não của Ngài như thế này.
Chúng ta có thể nói, các Đấng Thiêng Liêng đã làm bạn với các sắc dân, nhứt là Huỳnh tộc của chúng ta tưởng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết danh giá của Bát Tiên là thế nào ?
Ngộ nghĩnh thay ! Đức Chí Tôn làm thế nào mà chư vị Đại Tiên ấy ra đảm nhiệm sứ mạng Thiêng Liêng đến đặng tạo dựng cái nền tôn giáo của Ngài, Đức Hớn Chung Ly tức nhiên cái ngươn linh của Đức Cao Thượng Phẩm đó vậy.
Nên giờ phút này Bần Đạo nhớ đến có mảy may ân hận cơ huyền diệu của Ngài cầm trong tay tạo Đạo không còn nữa, thành thử không có cây cơ thứ nhì.
Nói thật ra, cái cơ Phong Thánh, cơ lập Thánh, cơ truyền giáo Ngài đã đem theo, nên ngày giờ nầy thảng có cơ Phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Đạo nâng loan có Ngài trợ lực, chớ cây cơ Phong Thánh hiển nhiên giờ phút này không còn tồn tại, cái tiếc của bần Đạo hay chăng là điều đó.

* * *

BÀI GIẢNG ĐẠO
Của ông Tiếp Pháp thuyết tại Đền Thánh
đêm 30 rạng mùng 1 tháng 3 năm Nhâm Dần (1962)
trong dịp vía Đức Cao Thượng Phẩm.

Kính thưa chư Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu, lưỡng phái .
Hôm nay là ngày vía của Đức Cao Thượng Phẩm, chúng tôi xin nhắc tiểu sử của Ngài, âu cũng là dịp xưng tụng công đức của người quá cố và cũng ôn lại cái đại chí của người tu hành để làm gương cho đoàn hậu tấn.
Hồi tưởng lại, kể từ ngày mùng 6 tháng 6 Ất Sửu nhằm ngày 26-7-1925 tại tư gia của Ngài ở Sài gòn, thường có năm ba người bạn nhóm họp xây bàn,thông công với các vong linh để xướng hoạ thi phú. Vì ham mộ văn chương mà những vị ấy tiếp tục xây bàn, kế đến phò cơ chấp bút và sau rốt lập thành một nền Tôn Giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đức Thượng Phẩm là người có đức tin hơn hết.
Lịch trình tiến triển sự phò cơ kể đại lược như vầy :
Nguyên đêm 10 tháng 7 Ất Sửu (1925) tại tư gia của Đức Cao Thượng Phẩm, các anh em cũng xây bàn như thường lệ, thoạt nhiên có Đức Chí Tôn đến, nhưng không xưng tên thiệt mà lại mượn chữ A, Ă, Â làm danh hiệu để xưng hộ, có lẽ Đức Chí Tôn mượn tên ấy để cho ba người dạn dĩ lân la học hỏi. Đến ngày mùng 1 tháng 11 Ất Sửu nhằm 16-2-1925 Đức Chí Tôn dạy phải lập Đàn cầu Đạo, Đức Thượng Phẩm lập bàn Vọng Thiên tại tư gia của Người ở đường Bourdais Sài gòn (nay là đường Bác sĩ Calmette).
Cầu Đạo rồi Đức Chí Tôn dạy phải dùng Ngọc Cơ để tiếp xúc với Đức Chí Tôn, thì cái giai đoạn xây bản đến đây là cao chung.
Từ đó, những vị đã theo xây bàn trước kia lại dùng lối phò cơ để học hỏi, mãi đến đêm 24-12-1925 dương lịch lễ Chúa Giáng Sinh thì Đức Chí Tôn giáng cơ dạy như vầy :
    NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG
      “Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền, Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên. Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế, Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên”
    Đêm nay 25-12 phải vui mừng, vì đó là ngày Ta xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây, Ta rất vui lòng mà đặng thấy Đệ Tử kính mến Ta như vầy, nhà nầy sẽ đầy ân đức Ta.
Nhà nầy mà Đức Chí Tôn nói là tư gia của Đức Thượng Phẩm, khi Đức Chí Tôn thăng rồi, người người nhìn nhau với một vẻ ngạc nhiên vừa mừng vừa sợ.
Thì té ra sự xây bàn phò cơ từ trước đến nay không phải là việc của người phàm tiêu khiển ngày giờ mà thật là việc của Trời khai Đạo. Sự phổ độkhởi đầu từ đó, người nhập môn càng ngày càng thêm đông.
Đến ngày 14 tháng 10 Bính Dần, nhằm ngày 18-11-1926 Đức Chí Tôn dạy thiết Đại lễ Khai Đạo chánh thức tại Từ Lâm Tự tỉnh Tây Ninh,đồng thời Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền phong vị cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài và Đức Chí Tôn dạy nhóm Hội Thánh lập luật, vậy sau ba tháng Đại Hội, Đạo đã có Pháp, có luật thì nghiểm nhiên Đạo thành một nền Tôn giáo danh gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Từ đó Đức Cao Thượng Phẩm xin nghỉ làm việc đời để có rộng ngày giờ hành Đạo, thành thử khi Toà Thánh dời vô làng Long Thành là Thánh Địa bây giờ, trong hàng Chức sắc HTĐ duy có Đức Cao Thượng Phẩm phế đời trước hết, Ngài thay mặt cho tất cả anh em Hiệp Thiên Đài cộng tác với Cửu Trùng Đài phá rừng cất Toà Thánh tạm.
Trong trường công quả, Đức Thượng Phẩm rất tận tâm, Ngài quyết chỉ góp công vào sự kiến tạo một nền Đại Đạo tại xứ Việt Nam, nhưng trong thời gian phục vụ, Đức Ngài phải chịu nhiều phen thử thách, lắm khi Ngài muốn ngã lòng, nhưng nhờ tinh thần vững chắc rồi cũng vượt qua, thật đúng lời cổ nhơn nói :
    “Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng Đạo cao nhứt trượng, ma thượng đầu nhơn”
Nghĩa là Đạo cao một thước thì ma cao một trường, Đạo cao một trượng thì ma cao khỏi đầu người.
Nhưng than ôi ! Thiên số nan đào, rồi Ngài lâm bịnh maiõ đến ngày mùng 1 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929) thì Ngài qui Tiên, năm ấy Ngài được 42 tuổi.
Nói tóm lại, đời của Đức Cao Thượng Phẩm lúc tuổi xuân là một vị công chức của Chánh phủ Pháp, khi vào Đạo là một vị Đại Thiên Phong nơi Đài Hiệp Thiên, ngày công viên quả mãn đắc vị “Kim Tiên” thật công trình cần lao khó nhọc không uổng.
Nay Đức Cao Thượng Phẩm thuộc về người Thiêng Liêng thì Ngài lại có nhiệm vụ “cứu rỗi phần hồn của chúng sanh”. Trong tay Ngài sẵn có hai món cổ pháp là “Long Tu Phiến” và “Phất chủ”. Thiết tưởng chúng ta nền bàn qua cái sở dụng của hai món cổ pháp ấy cho rõ.
Long Tu Phiến - về Pháp thể thì dùng 36 lông cò trắng kết thành một cây quạt, còn về Pháp linh thì Đức Cao thượng Phẩm giáng cơ dạy như vầy :
    “Long Tu Phiến là cây quạt do điển khí của Tam Thập Lục Thiên kết thành, quạt ấy tiết ra một điển lực có ảnh hưởng đến cuộc tấn hoá của quần linh. Chơn thần nào trong sạch thì nương theo đó mà siêu nhập Cực Lạc Thế Giới.
    Trái lại, chơn thần nào luyến ái tà mị thì lánh xa mà đi lần đến U Minh cảnh giới. Cả cơ “thu” và “đẩy” của Long Tu Phiến với chơn thần đều do luật “đồng khí tương cầu” mà thành tựu. Nghĩa là chơn thần đạo đức thì Long Tu Phiến hấp dẫn đến gần và đưa vào Cực Lạc Thế Giới còn chơn thần trọng trược thì Long Tu Phiến đẩy ra xa và lần hồi đi đến cảnh U Minh đen tối.”
Phất Chủ - Phất chủ là điển khí của Thất Bửu Diêu Trì kết hợp cùng để trau rửa Chơn Thần trở nên thanh khiết
Đó là tiểu sử của Đức Cao Thượng Phẩm, chúng ta là đoàn em cũng nên noi gương của người anh mà lần bước trên đường hành Đạo.
TIẾP PHÁP

* * *

BÀI THUYẾT ĐẠO CỦA ÔNG HIẾN PHÁP
Nhơn ngày Vía Đức Cao Thượng Phẩm
Mùng 1 tháng 3 Quý Mão (1963)

Kính thưa Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu lưỡng phái.
Nhơn ngày vía Đức Cao Thượng Phẩm, tôi xin lược thuật lịch sử của Người như sau nầy
Toàn thể Đạo Cao Đài đều rõ biết mối Đạo này do nơi nào mà xuất hiện.
Nguyên buổi ban sơ vào năm Ất Sửu (1925) ông Cao Quỳnh Cư (tức Thượng Phẩm) đang làm một công chức của Chánh phủ Pháp thường tới lui chơi với ông Cao Hoài Sang (tức Thượng Sanh) và ông Phạm Công Tắc (tức là Hộ Pháp) hai ông sau nầy cũng là công chức. Trong năm ấy tại thủ đô Sài gòn, việc xây bản là sai ma rất thạnh hành.
Ông Cao Quỳnh Cư cũng vì sự háo kỳ, đề nghị cùng hai ông bạn kia xây bàn mời các vong linh về hỏi việc và làm thi chơi. Ban đầu các vong linh về làm thi hoạ vận, làm cho mấy ông thích chí, vì có nhiều bài thi xuất sắc và cảm kích lạ thường. Lần lần mấy ông được tiếp xúc với mấy vị cao nhân, rồi đến lượt Đức Chí Tôn giáng dưới danh hiệu A, Ă, Â cố ý dìu độ mấy ông nhứt là ông Cao Quỳnh Cư, vì cuộc xây bàn tổ chức tại nhà ông này.
Nhơn dịp lễ Giáng Sinh Đức Chúa Giê-Su (đêm 24 rạng 25-12-1925) Đức Chí Tôn đến xưng chánh danh “Ngọc Hoàng Thượng Đế” viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương và cho bài thi sau nầy.
    “Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền Vui lòng tu niệm hưởng ân thiên Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên”
Ngài dạy luôn rằng : “đêm nay phải vui mừng vì là ngày Ta xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây (Europe).
Theo lời Đức Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm là chơn linh Hớn Chung Ly, một vị Đại Tiên trong Bát Tiên, lãnh sứ mạng của Chí Tôn đến tạo dựng nền Tôn giáo tại thế nầy. Người cùng Đức Hộ Pháp hợp thành cặp cơ Phong Thánh lập Pháp Chánh Truyền và Tân Luật để làm hiến chương cho nền Quốc Đạo.
Chúng ta phải nhìn nhận đầu công khai Đạo của Đức Cao Thượng Phẩm vì nếu thiếu bàn tay xây dựng của Người để chấp cơ cùng Đức Hộ Pháp thì :
    - Đâu có Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ - Đâu có Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ - Đâu có Hội Thánh và các cơ quan trong Đạo - Đâu có Pháp Chánh Truyền và Tân Luật - Đâu có Đại nghiệp hiện giờ cho nhơn sanh thừa hưởng.
Đức Cao Thượng Phẩm có tánh cao thượng và cương quyết nên khi nhận chơn được mối Đạo Trời thì Người nghe theo tiếng gọi Thiêng liêng phế đời hành Đạo liền, mặc dù lúc đó ông đang là một vị công chức.
Tuy Đạo khai ngày 14 tháng 10 Bính Dần (1926) mà thực sự Đức Cao Thượng Phẩm đã ngộ Đạo từ năm Ất Sửu (1925) vì các Đấng đã mượn bàn tay người mà mở Đạo bằng cách xây bàn từ năm ấy.
Đức Cao Thượng Phẩm về hành Đạo tại chùa Gò Kén hơn ba tháng, từ 14-10 Bính dần (1926) đến 20-2 Đinh Mão (23-3-1927) thì dời chùa về đất mới mua tại Toà Thánh hiện thời.
Lúc mới dời về đây, Chức Sắc chưa có mấy người thì việc phá rừng dọn đất, tạo tác và kiến trúc Đền Thánh tạm cùng các cơ sở khác đều do một tay Đức Cao Thượng Phẩm chỉ huy xây dựng.
Sau 4 năm tận tuỵ với Đạo, Người bị một cơn khảo đảo rất lớn làm cho hết sức buồn tủi, nếu không vì Thầy vì Đạo thì có thể trở ra mặt thế mà chớ.
Đối với người hiểu Đạo, thì việc khảo đạo thử thách là việc thường không chi lạ, các vì giáo chủ kia cũng không tránh khỏi sự thử thách. Hễ bị khảo nhiều thì công đức càng cao, nên ngày nay Đức Cao Thượng Phẩm được toàn Đạo kính mến xưng tụng công Đức và được hưởng ân huệ Đức Chí Tôn rước về Thiêng Liêng vị để đem các chơn hồn vào cửa Thiên như lời Thánh Giáo của Đức Chí Tôn ngày 7-3-năm Kỷ Tỵ (1929) dạy rằng :
    “Các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay mặt cho Thầy nơi thế nầy về phần đời, còn phần Đạo nơi cõi Thiêng Liêng cũng phải có đôi đứa con mới đặng cho”.
Đó là bằng chứng cụ thể cho chúng ta thấy rằng: nếu chúng ta hết lòng vì Đạo thì phần thưởng Thiêng Liêng không mất, ấy là công bình Thiên Đạo vậy.

* * *

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Nhị Thập Thất Niên)
Toà Thánh Tây Ninh
Bộ Pháp Chánh, đêm 25 tháng 01-Nhâm Thìn (20-02-1952)

CAO THUỢNG PHẨM

Bần Đạo chào mấy em
Đêm nay Bần Đạo giảng vế Thế Đạo là gì ?
Hẳn mấy em đã rõ đại cương về Thế Đạo là gì ? Nam thì Tam Cang Ngũ Thường; Nữ thì Tam Tùng Tứ Đức song đó chỉ là thế của Nhơn Đạo hữu hình mà thôi. Nếu mấy em hằng ngày tâm niệm có bấy nhiêu thì làm sao cho trọn vẹn được. Trong Thế Đạo phải phân tách ra làm hai pháp lý .
Một là Thể pháp Thế Đạo
Hai là Bí pháp Thế Đạo
Tam Cang Ngũ Thường, Tam Tùng Tứ Đức là thể đặng làm sở hành cho mặt thể pháp Thế Đạo mà thôi. Lấy đó làm chánh đề mà đi. Bây giờ muốn giữ Tam Cang phải làm thế nào ?
QUÂN THẦN CANG : Vua là kẻ chăn dân , vậy bổn phận ấy là phải lập trên những hàng tàng để cứu giúp cho dân khỏi điều thống khổ. Ấy là công việc của Cơ Quan Phước Thiện bây giờ đó. Tôi phải tỏ dạ trung thành đặng vừa giúp vua mà làm cho bá tánh an cư lạc nghiệp tức là bổn phận của hàng Thánh Thể đó vậy.
PHỤ TỬ CANG : Cha là người thay quyền Chí Tôn trong một tiểu gia đình tức nhiên phải biết mình là bổn phận giáo hoá dưỡng dục tức nhiên một Hội Thánh nhỏ trong một gia đình. Vậy con phải trọn hiếu, tức nhiên là không điều nhục Tổ hổ Tông,tức nhiên là bổn phận một tín đồ hay nói đúng hơn nữa là một môn đệ xứng đáng của Chí Tôn vậy.
PHU THÊ CANG : Chồnglà người cầm lèo giữ lái đặng đưa một tiểu gia đình đến chỗ đạo đức thanh bạch, tức nhiên là bổn phận của Cơ Quan Hành Chánh đó. Vợ là người tùng theo chồng để giúp an sự nghiệp, tạo nên hạnh phúc gia đình, tức nhiên bổn phận của Bảo Cô đã hẳn.
* Về Ngũ Thường thì
NHƠN : Là phải biết nghĩa đồng sanh, biết tình đồng hưởng âm dương chi khí, chẳng để lòng sái loạn chơn truyền, tức nhiên là phải trọn vâng theo luật công bình bác ái.
NGHĨA : Là phải biết trọn phần mình để tạo nên danh trọng giá cao ,tức nhiên là phải giữ nên phẩm hạnh mà nhìn rõ của chung đồng hưởng.
LỄ : Là giữ hạnh nết đúng đắn để tạo nên một nhơn phẩm biết nhường, biết nhịn, tức nhiên là phải giữ trọn hạnh Đạo đó.
TRÍ : Là phải thông hiểu việc thế mà đi, không để tên tuổi phải lời chê tiếng nhẻ, tức nhiên là phải trọn vâng luật pháp chơn truyền đó vậy.
TÍN : Là phải đúng lời hứa hẹn, tức là phải danh chánh ngôn thuận, thuyết hành phải được giống in nhau, tức nhiên là phải trọn thệ đó.
Đó là mặt Thể Pháp Thế Đạo, còn mặt Bí Pháp Thế Đạo là phương tầm ra định hướng để vẹn giữ Tam Cang Ngũ Thường, tức nhiên là trọn phần Nhơn Đạo. ấy là kết quả do Thể Pháp mà nên. Nói chung về Bí Pháp Thế Đạo là phương giúp đời an nhàn đạo đức chớ chẳng chi.

* Về Tam Tùng Tứ Đức là về phần của nữ phái
TÙNG PHỤ : Như người con phải giữ trọn tiết trinh, cũng như kẻ tín đồ giữ tròn danh Đạo.
TÙNG PHU : Như bóng với hình, tức nhiên phải ví mình như một trong Thánh Thể tùng Hội Thánh vậy.
TÙNG TỬ : Là phải vì đám hậu sanh mà quên mình đặng tạo nên sự nghiệp tương lai cho chúng, tức nhiên là bổn phận của chức sắc vậy.
CÔNG NGÔN DUNG HẠNH : Tức là việc làm cho nhơn sanh thoát khổ, lời nói để đưa đường giáo hoá, hành vi cử chỉ để treo gương mặt thế, tức là phải biết nâng cao giá trị của Thánh thể Chí Tôn, nết na đằm thắm, giữ trọn thương yêu, tức nhiên là làm nền móng cho Đại Đồng Thế Giới.
Đó là Thể Pháp. Kẻ đã trọn về mặt Thể Pháp tức nhiên hiểu biết Bí Pháp không chi lạ hơn là phương pháp bí yếu nâng cao giá trị cho Thể Đạo, nói rõ hơn nữa là làm cho Đời trở nên tận thiện tận Mỹ. Nói theo nhơn sanh triết lý thì Pháp là kế hoạch nâng cao đời sống trong Nhân Nghĩa đó vậy.
Mấy em đã rõ chưa, Bần Đạo kiếu.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét